Chiêm tinh học là gì – Wikipedia tiếng Việt

Chiêm tinh học là hệ thống bói toán ngụy khoa học tiên đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương đối của thiên thể.[1][2][3][4] Chiêm tinh học có niên đại ít nhất là khoảng thiên niên kỷ 2 TCN, và có nguồn gốc từ hệ thống lịch được sử dụng để dự đoán sự chuyển mùa và chu kỳ thiên thể như các dấu hiệu của sự giao tiếp với thần linh.[5] Nhiều nền văn hóa chú trọng đến các sự kiện thiên văn, chẳng hạn như Hindu, Trung Quốc, với và Maya đã phát triển các hệ thống phức tạp để dự đoán sự kiện trần thế bằng cách quan sát các thiên thể. Chiêm tinh học phương Tây là một trong các hệ thống chiêm tinh cổ nhất còn được sử dụng. Nó có thể có nguồn gốc từ vùng Lưỡng Hà vào thiên niên kỷ 2 TCN, sau đó lan sang Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, thế giới Ả Rập và cuối cùng là Trung và Tây u. Chiêm tinh học phương Tây thời đó thường sử dụng hệ thống horoscope (một hệ thống giống với tử vi phương Đông) để giải thích các khía cạnh trong nhân cách con người và dự đoán các sự kiện tương lai trong cuộc sống dựa trên vị trí của các thiên thể khác. Đa số các nhà chiêm tinh học chuyên nghiệp đều dựa trên các hệ thống dự đoán tương tự như vậy.[6]:83

Xuyên suốt lịch sử vẻ vang, chiêm tinh học được xem là một mạng lưới hệ thống lưu truyền mang tính bác học và thông dụng trong giới học thuật, thường có mối quan hệ mật thiết với thiên văn học, với thuật giả kim, khí tượng học, với và y học. [ 7 ] Nó có sự hiện hữu trong giới chính trị và được đề cập trong nhiều tác phẩm văn học khác nhau, từ các tác giả như Dante Alighieri và Geoffrey Chaucer cho đến William Shakespeare, Lope de Vega, và Calderón de la Barca. Sau khi thế kỷ 19 kết thúc và giải pháp khoa học được đồng ý thoáng rộng, các nhà nghiên cứu trọn vẹn không còn công nhận chiêm tinh học trên cả phương diện kim chỉ nan, [ 8 ] : 249 ; [ 9 ] thí nghiệm, [ 10 ] [ 11 ] và chứng tỏ được rằng nó không có giá trị khoa học hay sức thuyết phục. [ 6 ] Do đó, chiêm tinh học mất đi vị thế trong học thuật và kim chỉ nan, niềm tin phổ cập về nó đa số bị suy giảm, cho đến khi hồi sinh trở lại vào thập niên 1960. [ 12 ] Tranh khắc thế kỷ 15 của Marcantonio Raimondi biểu lộ hai người phụ nữ với cung hoàng đạo Thiên Bình và Thiên Yết

Chiêm tinh học trong tiếng Anh là astrology, và bắt nguồn từ từ astrologia trong tiếng Latinh,[13] sâu xa hơn là từ ἀστρολογία trong tiếng Hy Lạp – vốn là từ ghép của từ ἄστρον (astron, nghĩa là “Tại sao”) và -λογία (-logia, nghĩa là “nghiên cứu về”). Astrologia sau đó thay đổi nghĩa thành ‘bói toán bằng Tại sao’, vốn được gọi bằng thuật ngữ khoa học là astronomia.[14]

Bạn đang đọc: Chiêm tinh học là gì – Wikipedia tiếng Việt

Bạn đang đọc: Chiêm tinh học là gì – Wikipedia tiếng Việt

The Zodiac Man, sơ đồ cơ thể con người với các biểu tượng chiêm tinh, kèm theo đó là chỉ dẫn giải thích về tầm quan trọng của chiêm tinh dưới góc độ y học. Hình ảnh này lấy từ bản thảo, sơ đồ khung hình con người với các hình tượng chiêm tinh, kèm theo đó là chỉ dẫn lý giải về tầm quan trọng của chiêm tinh dưới góc nhìn y học. Hình ảnh này lấy từ bản thảo tiếng Wales thế kỷ 15Có nhiều nền văn hóa truyền thống coi trọng các sự kiện thiên văn. Từ thời thời xưa, người Ấn Độ, người Trung Quốc, với người Maya đã tăng trưởng các mạng lưới hệ thống phức tạp để Dự kiến sự kiện trần gian bằng cách quan sát thiên thể. Ở phương Tây, và chiêm tinh học thường gồm có mạng lưới hệ thống horoscope nhằm mục đích lý giải góc nhìn trong nhân cách con người và Dự kiến tương lai đời sống của họ dựa trên vị trí của Mặt Trời, Mặt Trăng và các thiên thể khác tại thời gian họ sinh ra. Phần lớn các nhà chiêm tinh học chuyên nghiệp dựa trên các mạng lưới hệ thống như vậy. [ 6 ] : 83

Chiêm tinh học có niên đại ít nhất là từ khoảng thiên niên kỷ 2 TCN, tại Lưỡng Hà, với nguồn gốc là từ hệ thống lịch được sử dụng để dự đoán sự chuyển mùa và giải thích chu kỳ thiên thể như các dấu hiệu của sự giao tiếp với thần linh.[5] Vedāṅga Jyotiṣa là một trong các văn bản Hindu được biết đến cổ nhất về thiên văn học và chiêm tinh học (Jyotisha). Văn bản có niên đại từ năm 1400 TCN đến các năm cuối cùng TCN, theo nhiều học giả khác nhau dựa trên bằng chứng về ngôn ngữ và thiên văn học. Chiêm tinh học Trung Quốc bắt đầu có hệ thống từ thời nhà Chu (1046–256 TCN). Chiêm tinh học thời kỳ Hy Lạp hóa kể từ sau năm 332 TCN có sự pha trộn với thuật chiêm tinh Decan của Ai Cập ở Alexandria, tạo thành thuật chiêm tinh horoscope. Cuộc chinh phạt châu Á của Alexandros Đại đế đã góp phần truyền bá chiêm tinh học đến Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại. Ở La Mã, chiêm tinh học gắn liền với ‘trí tuệ của người Chaldea’. Sau cuộc chinh phạt Alexandria vào thế kỷ 7, chiêm tinh học được các học giả Hồi giáo sử dụng, các văn bản thời kỳ Hy Lạp hóa được dịch sang tiếng Ả Rập và tiếng Ba Tư. Vào thế kỷ 12, văn bản tiếng Ả Rập du nhập vào châu u và được dịch sang tiếng Latinh. các nhà thiên văn học lớn như Tycho Brahe, Johannes Kepler và Galileo đã hành nghề nhà chiêm tinh hoàng gia. Chiêm tinh học cũng được đề cập trong các tác phẩm văn chương của các nhà thơ như Dante Alighieri và Geoffrey Chaucer, và các nhà soạn kịch như Christopher Marlowe và William Shakespeare.

Xuyên suốt phần nhiều lịch sử vẻ vang chiêm tinh học, với nó được xem là một mạng lưới hệ thống lưu truyền mang tính bác học. Nó được gật đầu trong ngữ cảnh chính trị và học thuật, có link với các nghiên cứu và điều tra khác, với Thí dụ điển hình như thiên văn học, với thuật giả kim, khí tượng học và y học. [ 7 ] Cuối thế kỷ 17, các khái niệm khoa học mới trong thiên văn học và vật lý ( Thí dụ điển hình như thuyết nhật tâm và cơ học Newton ) đã đặt nghi vấn về chiêm tinh học. Do đó, chiêm tinh học mất đi vị thế trong học thuật và triết lý, và niềm tin phổ cập về chiêm tinh học phần nhiều bị suy giảm. [ 12 ]

Thế giới cổ đại

Chiêm tinh học, với theo nghĩa rộng nhất, là tìm kiếm ý nghĩa của khung trời. [ 15 ] : 2,3 Bằng chứng cổ xưa về việc con người nỗ lực có ý thức để đo lường và thống kê, ghi chép lại, và Dự kiến sự chuyển mùa bằng cách tìm hiểu thêm chu kỳ luân hồi thiên văn, là từ các dấu tích trên xương và vách hang động, cho thấy rằng chu kỳ luân hồi Mặt Trăng được ghi nhận sớm nhất từ khoảng chừng 25.000 năm về trước. [ 16 ] : 81 ff Đây là trong bước đầu của việc hướng tới ghi chép lại ảnh hưởng tác động của Mặt Trăng đến thủy triều và sông ngòi, đồng thời hướng tới việc soạn ra lịch chung. [ 16 ] Nông dân xử lý nhu yếu nông nghiệp bằng cách nâng cao kiến thức và kỹ năng về chòm sao Open trong các mùa khác nhau – và ứng dụng việc quan sát thấy sự mọc lên của một nhóm sao đơn cử để đoán trước lũ lụt hàng năm và hoạt động giải trí theo mùa. [ 17 ] Đến thiên niên kỷ 3 TCN, các nền văn minh đã có nhận thức phức tạp về chu kỳ luân hồi thiên thể, và hoàn toàn có thể thiết kế xây dựng đền tại nơi tương thích với sự mọc cùng Mặt Trời của các Tại sao. [ 18 ]

Bằng chứng phân tán cho thấy các nguồn tài liệu cổ nhất được biết đến về chiêm tinh học là bản sao của các văn bản được tạo ra trong thế giới cổ đại. Phiến đá Sao Kim của Ammisaduqa được cho là đã soạn thảo ở Babylon vào khoảng năm 1700 TCN.[19] Có một cuộn giấy ghi chép lại việc sử dụng thuật chiêm tinh sự kiện từ thời xa xưa, khả năng cao là thuộc về triều đại của người trị vì Sumer (ensi) là Gudea xứ Lagash (khoảng 2144 – 2124 TCN). Cuộn giấy này mô tả cách mà các vị thần tiết lộ cho Gudea trong một giấc mơ biết về các chòm sao nào sẽ thuận lợi nhất cho việc xây dựng ngôi đền theo ước định.[20] Tuy vậy, và vẫn còn tranh cãi về việc liệu các điều này có thật sự được ghi chép vào thời gian đó không hay chỉ đơn thuần là chuyện do hậu thế thêu dệt nên về người trị vì cổ đại. Do đó, bằng chứng lâu đời nhất không thể chối cãi về việc sử dụng chiêm tinh học như một hệ thống kiến thức tổng hợp, được cho là từ các ghi chép thuộc về triều đại đầu tiên của Lưỡng Hà (1950–1651 TCN). Thuật chiêm tinh này có Một vài điểm tương đồng với thuật chiêm tinh Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa (phương Tây).[21] Người Babylon xem sự kiện thiên thể là báo hiệu cho các chuyện có thể xảy ra hơn là hiện tượng tự nhiên.[21]

Hệ thống chiêm tinh học của Trung Quốc được kiến thiết xây dựng vào thời nhà Chu ( 1046 – 256 TCN ) và tăng trưởng mạnh vào thời nhà Hán ( thế kỷ 2 TCN – thế kỷ 2 ). Trong đó, tổng thể yếu tố quen thuộc của văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn Trung Quốc như triết lý m-Dương, thuyết ngũ hành, Thiên Địa, tư tưởng nho giáo – đều được tích hợp lại với nhau để hợp thức hóa các nguyên tắc triết học của y học Trung Quốc, với bói toán, chiêm tinh và luyện đan. [ 22 ] : 3,4

Tranh cãi thời cổ đại

Nhà hùng biện người La Mã Cicero phản đối chiêm tinh họcCác phe phái thiếu tín nhiệm triết học thời kỳ Hy Lạp hóa chỉ trích tính hài hòa và hợp lý của chiêm tinh học. các lời chỉ trích về chiêm tinh học của những người theo chủ nghĩa thiếu tín nhiệm học thuật như Cicero, Carneades và Favorinus ; và người theo chủ nghĩa Pyrrho như Sextus Empiricus, vẫn còn được bảo tồn cho đến ngày này .Carneades lập luận rằng niềm tin vào số phận đã phủ định ý chí tự do và đạo đức ; rằng những người sinh ra vào các thời gian khác nhau đều hoàn toàn có thể chết trong cùng một tai nạn đáng tiếc hoặc trận chiến ; và trái ngược với việc chịu ảnh hưởng tác động cùng một kiểu từ các Tại sao, thì các bộ lạc và nền văn hóa truyền thống lại có sự độc lạ nhau. [ 23 ]Cicero đưa ra phản đối về song sinh, rằng với thời hạn sinh gần nhau, kết cục của mỗi cá thể rất hoàn toàn có thể khác nhau. Quan điểm này sau này được Thánh Augustinus tăng trưởng. Cicero lập luận rằng vì các hành tinh khác ở xa Trái Đất hơn nhiều so với Mặt Trăng, nên chúng hoàn toàn có thể chỉ có ảnh hưởng tác động rất nhỏ nếu so với Mặt Trăng. Ông cũng lập luận rằng nếu chiêm tinh học lý giải mọi thứ về số phận con người, thì nó đã sai lầm đáng tiếc khi bỏ lỡ ảnh hưởng tác động hoàn toàn có thể thấy rõ của năng lực di truyền và nuôi dạy con cháu, các biến hóa về sức khỏe thể chất do tác động ảnh hưởng của y học, với hoặc tác động ảnh hưởng của thời tiết so với con người .Favorinus lập luận rằng thật không bình thường khi tưởng tượng rằng các Tại sao và hành tinh sẽ ảnh hưởng tác động đến khung hình con người như cách mà chúng ảnh hưởng tác động đến thủy triều, và một điều cũng không bình thường không kém là các hoạt động nhỏ trên khung trời lại hoàn toàn có thể gây ra các đổi khác lớn trong số phận con người .

Sextus Empiricus cho rằng thật phi lý khi liên kết các gì thuộc về con người với các chuyện hoang đường về cung hoàng đạo. Ông cũng viết cả một cuốn sách có tựa là Pros astrologous soạn ra các lập luận phản bác chiêm tinh học.

Ai Cập thời kỳ Hy Lạp hóa

Tetrabiblos do Ptolemaeus viết, được Bản sao năm 1484 trang tiên phong của tác phẩmdo Ptolemaeus viết, được Plato Tiburtinus dịch sang tiếng Latinh. Tác phẩm này là nền tảng của chiêm tinh học phương TâyNăm 525 TCN, Ai Cập bị người Ba Tư chinh phục. Đai hoàng đạo Dendera của người Ai Cập vào thế kỷ 1 TCN có sự tương đương với chiêm tinh học Lưỡng Hà, khi đều có cung hoàng đạo Thiên Bình và Thiên Yết .

Ai Cập bước vào thời kỳ Hy Lạp hóa khi bị Alexandros Đại Đế chiếm đóng vào năm 332 TCN. Sau cuộc chinh phạt, Alexandros thành lập nên thành phố Alexandria, nơi mà thuật chiêm tinh Babylon pha trộn với thuật chiêm tinh Decan của Ai Cập tạo thành thuật chiêm tinh horoscope. Nó bao gồm thuật chiêm tinh Babylon với hệ thống vượng tinh, bộ ba cung hoàng đạo và tầm quan trọng của nhật thực. Thuật chiêm tinh horoscope sử dụng quan niệm của người Ai Cập để chia đai hoàng đạo thành 36 decan, mỗi decan là 10°. Ngoài ra, nó còn sử dụng hệ thống các vị thần hành tinh của Hy Lạp, những người cai trị cung hoàng đạo và bốn nguyên tố. các văn bản thế kỷ 2 TCN dự đoán vị trí của các hành tinh trong cung hoàng đạo tại thời điểm mọc lên của các decan nhất định, đặc biệt là Sothis. Nhà chiêm tinh và thiên văn học Ptolemaeus sống ở Alexandria, ông là tác giả của cuốn Tetrabiblos. Tác phẩm này là nền tảng của chiêm tinh học phương Tây.

Hy Lạp và La Mã

Cuộc chinh phạt châu Á của Alexandros Đại Đế khiến người Hy Lạp có thời cơ tiếp xúc với các ý tưởng sáng tạo từ Syria, Babylon, Ba Tư và Trung Á. Khoảng năm 280 TCN, một tư tế đến từ Babylon là Berossus đã chuyển đến hòn đảo Kos của Hy Lạp, giảng dạy về chiêm tinh và văn hóa truyền thống Babylon. Vào thế kỷ 1 TCN, có 2 loại thuật chiêm tinh, một là thuật chiêm tinh sử dụng horoscope để diễn đạt quá khứ, hiện tại, tương lai ; loại thứ hai là theurgy, và nhấn mạnh vấn đề đến việc linh hồn bay đến các Tại sao. Ảnh hưởng của Hy Lạp đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá triết lý chiêm tinh đến La Mã .Tài liệu tiên phong đề cập đến chiêm tinh học ở La Mã chắc như đinh đến từ nhà hùng biện tên là Cato. Năm 160 TCN, ông đã cảnh cáo các giám thị nông trại không được thỉnh giáo người Chaldea, nhóm người được diễn đạt là ‘ các kẻ ngắm sao ‘ người Babylon. Trong mắt những người Hy Lạp và người La Mã, tên tuổi của Babylonia ( cũng được biết đến là Chaldea ) trở nên gắn liền với chiêm tinh học đến mức ‘ trí tuệ của người Chaldea ‘ đồng nghĩa tương quan với thuật bói toán sử dụng hành tinh và Tại sao. Nhà thơ và nhà văn trào phúng người La Mã thế kỷ 2 là Juvenalis phàn nàn về tác động ảnh hưởng lan rộng của người Chaldea, nói rằng ” Người Chaldea vẫn được tin cậy hơn cả ; mọi câu từ mà nhà chiêm tinh thốt ra sẽ khiến họ [ tức phụ nữ ] tin là đến từ suối nguồn của Hammon [ tức Dòng Yamaha Jupiter ]. ” [ 40 ]Một trong các nhà chiêm tinh tiên phong đưa thuật chiêm tinh Hermes đến La Mã là Thrasyllus. Ông là nhà chiêm tinh của nhà vua Tiberius, vị hoàng đế tiên phong có nhà chiêm tinh hoàng gia. Dù vậy, và người nhiệm kỳ trước đó của Tiberius là Augustus đã sử dụng chiêm tinh học để hợp pháp hóa quyền nhà vua của mình .

Thế giới Trung Cổ

các văn bản chính mà chiêm tinh học Ấn Độ cổ điển dựa vào là các tuyển tập thuộc Sơ kỳ Trung Cổ, đặc biệt là Brihat Parashara Hora Shastra, và Saravali của quốc vương Kalyanavarman. Hora Shastra là một hợp tuyển gồm 71 chương, trong đó phần đầu tiên (chương 1–51) có niên đại từ thế kỷ 7 đến đầu thế kỷ 8, và phần thứ hai (chương 52–71) có niên đại là cuối thế kỷ 8. Tương tự như vậy, và Saravali cũng có niên đại vào khoảng thế kỷ 8.[43]

De Magnis Coniunctionibus, Bản dịch tiếng Latinh của Venize, 1515

Sau khi thành phố Alexandria rơi vào tay người Ả Rập vào thế kỷ 7 và Nhà Abbas được thành lập vào thế kỷ 8, chiêm tinh học đã được các học giả Hồi giáo nghiên cứu.[44] Triều đại khalip Abbas thứ hai là Al Mansur (754–775) đã thành lập nên thành phố Bagdad đóng vai trò như một trung tâm học thuật. Thành phố này có xây dựng một trung tâm dịch thuật thư viện được gọi là “Ngôi nhà Trí tuệ” Bayt al-Hikma, nơi được thế hệ kế tục Al Mansur duy trì phát triển và là động lực chính cho các bản dịch tiếng Ả Rập-Ba Tư của các văn bản chiêm tinh học thời kỳ Hy Lạp hóa. các dịch giả đời đầu bao gồm Mashallah, người giúp bầu chọn thời điểm thành lập Bagdad,[45] và Sahl ibn Bishr (hay còn có tên gọi khác là Zael), người soạn ra các văn bản có ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà chiêm tinh châu u về sau như Guido Bonatti (thế kỷ 13), và William Lilly (thế kỷ 17).[46] Kiến thức từ văn bản tiếng Ả Rập bắt đầu du nhập vào châu u trong các bản dịch tiếng Latinh thế kỷ 12.

Cuốn sách về chiêm tinh học đầu tiên xuất bản tại châu u là Liber Planetis et Mundi Climatibus (“Quyển sách về hành tinh và khu vực trên thế giới”), xuất hiện từ năm 1010 đến năm 1027, và tác giả của nó có thể là Giáo hoàng Silvestro II. Năm 1138, quyển sách Tetrabiblos (thế kỷ 2) của Ptolemaeus được Plato Tiburtinus dịch sang tiếng Latinh. Nhà toán học thế kỷ 13 là Campanus xứ Novara được cho là người phát minh ra hệ thống chiêm tinh chia đường mão dậu (prime vertical) thành từng “nhà”, mỗi “nhà” đều có độ dài cung tròn là 30°, dù vậy hệ thống này đã được phương Đông sử dụng từ trước.[49] Nhà thiên văn học thế kỷ 13 Guido Bonatti đã viết một cuốn sách giáo khoa có tựa đề là Liber Astronomicus, bản sao của nó thuộc về Vua Henry VII của Anh vào cuối thế kỷ 15.

Trong Paradiso (Thiên đàng), phần cuối cùng của Thần khúc, với thi hào người Ý Dante Alighieri đề cập đến “hằng hà sa số chi tiết” về các hành tinh chiêm tinh.[50] Dẫu vậy, và ông có điều chỉnh chiêm tinh học truyền thống sao cho phù hợp với quan điểm Cơ Đốc của mình.[50] Chẳng hạn như sử dụng tư duy chiêm tinh trong các lời tiên tri của ông về sự cải cách của các nước theo đạo Cơ Đốc.[51]

Tranh cãi thời Trung Cổ

Nhà thần học thời Trung Cổ, Isidorus thành Hipalis chỉ trích tính tất định của chiêm tinh học .

Vào thế kỷ 7, Isidorus thành Hispalis lập luận trong cuốn Etymologiae rằng thiên văn học mô tả chuyển động của thiên đàng, trong khi chiêm tinh học có 2 phần: một là khoa học mô tả chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các Tại sao; phần còn lại là đưa ra các dự đoán, theo thần học thì đó là quan niệm sai lầm.[53] Ngược lại, John Gower (thế kỷ 14) định nghĩa rằng chiêm tinh học cơ bản chỉ giới hạn trong việc đưa ra các dự đoán.[54] Nghiên cứu về ảnh hưởng của các Tại sao được xếp vào phân nhánh thuật chiêm tinh tự nhiên, chẳng hạn như dự đoán tác động của Tại sao đến thủy triều và sự tăng trưởng của thực vật, và thuật chiêm tinh phán đoán, dự đoán các tác động có thể xảy ra đối với con người.[56] Tuy vậy, và người theo chủ nghĩa hoài nghi là Nicole Oresme (thế kỷ 10) đã liệt thiên văn học là một phần của chiêm tinh học trong tác phẩm Livre de divinacions của ông. Mặc dù Oresme lập luận rằng cách tiếp cận đương thời để dự đoán các sự kiện như bệnh dịch, chiến tranh, thời tiết là không phù hợp, nhưng các dự đoán kiểu như vậy vẫn là lĩnh vực đáng để nghiên cứu. Tuy vậy, và ông công kích việc sử dụng chiêm tinh học để chọn thời điểm hành động (cái gọi là thẩm vấn và bầu cử) là hoàn toàn sai lầm, và không chấp nhận việc quyết định hành động con người dựa trên các Tại sao, vì nó giam cầm sự tự do ý chí của con người.[58] Tương tự như vậy, và trong cuốn sách Contre les Devineurs (1411), thầy dòng Laurens Pignon (khoảng 1368–1449)[59] đã bác bỏ tất cả các hình thức bói toán và thuyết định đoạt, kể cả bói toán bằng Tại sao. Điều này trái ngược với quan điểm truyền thống của nhà thiên văn người Ả Rập Abu Ma’shar, tác phẩm của ông là Introductorium in Astronomiam and De Magnis Coniunctionibus cho rằng cả hành động của cá nhân và rộng hơn là lịch sử đều được định đoạt bởi Tại sao.

Cuối thế kỷ 15, Giovanni Pico della Mirandola đã viết tác phẩm Disputationes contra Astrologos công kích mạnh mẽ chiêm tinh học, với cho rằng thiên đàng không phải là nơi gây ra, và cũng không báo trước sự kiện xảy ra ở trần thế.[62] Người cùng thời với ông là Pietro Pomponazzi, một “người theo chủ nghĩa duy lý và nhà tư duy phản biện”, thì lại tin tưởng vào chiêm tinh học và phê bình sự công kích của Pico.[63]

Thời kỳ Phục Hưng và Cận đại

Utriusque Cosmi Historia (1617) của ‘ Một nhà chiêm tinh bói horoscope ‘ trong tác phẩm ( 1617 ) của Robert FluddCác học giả thời Phục Hưng thường thực hành thực tế chiêm tinh học. Gerolamo Cardano đã bói horoscope cho vua Edward VI của Anh, còn John Dee là nhà chiêm tinh hoàng gia phụng sự nữ hoàng Elizabeth I của Anh. Catherine de Médicis đã chi tiền cho Nostradamus để xác định Dự kiến của nhà chiêm tinh Lucus Gauricus về cái chết của chồng bà là vua Henri II của Pháp. các nhà thiên văn lớn hành nghề nhà chiêm tinh hoàng gia gồm có Tycho Brahe thuộc hoàng gia Đan Mạch, Johannes Kepler Giao hàng nhà Habsburgs, Galileo Galilei Giao hàng nhà Medici, và Giordano Bruno, người bị thiêu trên cọc ở Roma vào năm 1600 vì bị cho là theo dị giáo. Sự độc lạ giữa chiêm tinh học và thiên văn học không trọn vẹn rõ ràng. các tân tiến trong thiên văn học thường được thôi thúc bởi mong ước cải tổ độ đúng mực của chiêm tinh học. [ 65 ]Lịch thiên văn với các phép tính chiêm tinh phức tạp, và các cuốn niên lịch lý giải sự kiện thiên thể được sử dụng cho mục tiêu y học và chọn thời gian gieo trồng, rất phổ cập ở Anh thời Elizabeth. [ 66 ] Năm 1597, nhà toán học và bác sĩ người Anh Thomas Hood đã tạo ra bộ dụng cụ bằng giấy sử dụng các lớp phủ quay vòng để giúp học trò tìm ra mối quan hệ giữa các ngôi sao 5 cánh hoặc chòm sao cố định và thắt chặt, thiên đỉnh ( midheaven ) của đường hoàng đạo, và 12 ” nhà ” trong chiêm tinh. [ 67 ] Dụng cụ của Hood cũng minh họa các mối quan hệ được cho là giữa các cung hoàng đạo, các hành tinh, và các bộ phận trên khung hình con người được tin là do hành tinh và cung hoàng đạo chi phối. [ 67 ] [ 68 ]

Thời kỳ Khai sáng và về sau

Phụ nữ trung lưu ở Chicago đàm đạo về thuyết duy linh. ( 1906 )

Trong thời kỳ Khai sáng, giới tri thức không còn đồng tình với chiêm tinh học nữa, chỉ còn Một vài lượng lớn tín đồ tin vào các cuốn niên lịch rẻ tiền. Nhà biên soạn niên lịch người Anh, Richard Saunders, hưởng ứng tinh thần của thời đại bằng cách in một bài chế giễu có tựa đề Discourse on the Invalidity of Astrology, và trong khi ở Pháp, cuốn Dictionnaire (1697) của Pierre Bayle cho rằng chiêm tinh học là trò trẻ con. Nhà văn châm biếm người Ireland gốc Anh là Jonathan Swift đã chế nhạo John Partridge, nhà chiêm tinh chính trị theo học thuyết Whig.[69]

Chiêm tinh học có tín hiệu phổ biến trở lại từ thế kỷ 19, với vai trò là một phần quan trọng của sự hồi sinh thuyết duy linh – và sau này là trào lưu triết học New Age. [ 70 ] : 239 – 249 Phương tiện thông tin đại chúng, Thí dụ điển hình như báo horoscope cũng có tác động ảnh hưởng đến sự hồi sinh của chiêm tinh. [ 70 ] : 259 – 263 Đầu thế kỷ 20, nhà tâm thần học Carl Jung có tăng trưởng Một vài ít khái niệm tương quan đến chiêm tinh học, với [ 71 ] dẫn đến sự tăng trưởng của thuật chiêm tinh tâm ý. [ 70 ] : 251 – 256 ; [ 72 ] [ 73 ]

Nguyên tắc và thực hành thực tế

những người ủng hộ định nghĩa chiêm tinh học là ngôn từ tượng trưng, một mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ, một ngành khoa học, với và là giải pháp bói toán. [ 74 ] [ 75 ] Mặc dù hầu hết mạng lưới hệ thống chiêm tinh của các nền văn hóa truyền thống đều có chung nguồn gốc triết học cổ đại, tác động ảnh hưởng qua lại nhau, nhưng cũng có nhiều nền mạng lưới hệ thống sử dụng chiêu thức độc lạ với phương Tây. Chúng gồm có thuật chiêm tinh Hindu ( hay còn được gọi là ” thuật chiêm tinh Ấn Độ “, trong thời văn minh được gọi là ” thuật chiêm tinh Vệ Đà ” ) và thuật chiêm tinh Trung Quốc, với cả hai đều có tác động ảnh hưởng đến lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống quốc tế .

Thuật chiêm tinh phương Tây là một hình thức bói toán dựa trên việc xây dựng horoscope cho một thời điểm chính xác, với chẳng hạn như ngày sinh của một người.[76] Nó sử dụng đai hoàng đạo chí tuyến, được đồng chỉnh với điểm phân.[77]

Thuật chiêm tinh phương Tây được kiến thiết xây dựng dựa trên hoạt động và vị trí tương đối của các thiên thể như Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh, được nghiên cứu và phân tích bằng hoạt động của chúng trải qua các cung hoàng đạo ( 12 phân loại khoảng trống của hoàng đạo ) và các góc nhìn của chúng ( dựa trên các góc hình học ) có tương quan với nhau. Chúng cũng được xem xét bởi vị trí của chúng trong các ” nhà ” ( 12 phân loại khoảng trống của khung trời ). [ 78 ] Thuật chiêm tinh tân tiến trong các phương tiện thông tin đại chúng thường được rút gọn thành thuật chiêm tinh cung mặt trời, tức là chỉ xem xét cung Mặt Trời tại ngày sinh của một người. cách này chỉ sử dụng 1/12 biểu đồ hoàng đạo. [ 79 ]Horoscope bộc lộ một cách trực quan tập hợp các mối liên hệ cho thời hạn và khu vực của sự kiện được chọn. các mối liên hệ này đặt giữa bảy ‘ hành tinh ‘, biểu lộ cho các khuynh hướng như cuộc chiến tranh và tình yêu ; 12 cung hoàng đạo ; và 12 ” nhà “. Mỗi hành tinh đều nằm trong một cung đơn cử và một ngôi nhà đơn cử tại thời gian được chọn. Khi hành tinh được quan sát từ nơi được chọn thì sẽ tạo ra 2 loại mối liên hệ. [ 80 ] Loại thứ 3 là là góc nhìn của mỗi hành tinh so với mọi hành tinh khác, với Thí dụ như 2 hành tinh cách nhau một góc 120 ° ( góc ‘ tam hợp ‘ ) sẽ có mối quan hệ hòa giải, nhưng 2 hành tinh cách nhau một góc 90 ° ( ‘ góc vuông ‘ ) lại có mối quan hệ xung khắc. [ 81 ] [ 82 ]Cùng với bói bài Tarot, chiêm tinh học là một trong các điều tra và nghiên cứu cốt lõi của chủ nghĩa bí truyền phương Tây. Do đó, nó có tác động ảnh hưởng đến các mạng lưới hệ thống tín ngưỡng ma thuật không riêng gì giữa những người theo thuyết bí truyền phương Tây và thuyết Hermes, mà còn với cả mạng lưới hệ thống tín ngưỡng như Wicca, vốn vay mượn hoặc chịu ảnh hưởng tác động từ chủ nghĩa bí truyền phương Tây. [ 83 ]

Văn bản Vệ Đà sớm nhất về thiên văn học Vedanga Jyotisha. Tư tưởng Vệ Đà sau này cũng được đề cập trong chiêm tinh học.[84]

Thuật chiêm tinh dựa trên biểu đồ ngày sinh (natal astrology) của Hindu bắt nguồn từ thuật chiêm tinh thời kỳ Hy Lạp hóa vào thế kỷ 3 TCN.[85]:361[86] Dù vậy, và thuât chiêm tinh Hindu vẫn có sự khác biệt khi tích hợp khái niệm nakshatra (tương đương với nhị thập bát tú).[87] Tên của các cung (Thí dụ: Bạch Dương trong chiêm tinh Hy Lạp là ‘Krios’, thì trong chiêm tinh Hindu là ‘Kriya’), các hành tinh (Thí dụ: Mặt Trời trong chiêm tinh Hy Lạp là ‘Helios’, thì trong chiêm tinh Hindu là ‘Heli’) và thuật ngữ chiêm tinh (Thí dụ: ‘apoklima’ và ‘sunaphe’ trong chiêm tinh Hy Lạp lần lượt là xích vĩ và giao hội, thì trong chiêm tinh Hindu tương ứng là ‘apoklima’ và ‘sunapha’) trong các văn bản của nhà thiên văn Varahamihira được xem là bằng chứng thuyết phục về gốc gác Hy Lạp trong thuật chiêm tinh Hindu.[88] Thuật chiêm tinh Ấn Độ cũng có sự bổ sung của thuật chiêm tinh Babylon.[89]:231

Trung Quốc, với Đông Á và Khu vực Đông Nam Á

Thuật chiêm tinh Trung Quốc có mối liên hệ ngặt nghèo với triết học Trung Quốc ( thuyết tam tài : thiên thời – địa lợi – nhân hòa ) và sử dụng các khái niệm như âm khí và dương khí, ngũ hành, thiên can, địa chi và thời thần ( tức canh giờ, một cách tính thời hạn sử dụng cho mục tiêu tôn giáo ). Thời kỳ đầu, thuật chiêm tinh Trung Quốc đa phần chỉ sử dụng cho mục tiêu chính trị, quan sát các hiện tượng kỳ lạ không bình thường, xác lập điềm gở và lựa chọn ngày lành tháng tốt cho các sự kiện và quyết định hành động trọng đại. [ 22 ] : 22,85,176Chiêm tinh Trung Quốc không sử dụng mạng lưới hệ thống chòm sao trong đai hoàng đạo Tây Á và châu u ; thay vào đó khung trời được chia thành tam viên ( 三垣 ), và nhị thập bát tú ( 二十八宿 ) trong thập nhị thứ ( 十二次 ). [ 90 ] 12 con giáp ở Trung Quốc được cho là đại diện thay mặt cho 12 nhân cách khác nhau. Nó dựa vào chu kỳ luân hồi năm, tháng âm lịch, và mỗi hai giờ một ngày là một canh ( thời thần ). Theo truyền thống cuội nguồn, chu kỳ luân hồi 12 con giáp khởi đầu bằng Tý, sau đó liên tục qua 11 con vật khác : Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. [ 91 ] Hệ thống Dự kiến vận mệnh và định mệnh phức tạp dựa trên ngày sinh, mùa sinh, và giờ sinh của một người, Thí dụ điển hình như tử bình ( 子平 ) và tử vi đẩu số ( tiếng Trung giản thể : 紫微斗数 ; tiếng Trung phồn thể : 紫微斗數 ) vẫn còn được liên tục sử dụng trong chiêm tinh Trung Quốc cho đến thời nay. Hệ thống này không dựa vào quan sát trực tiếp các Tại sao. [ 92 ]

12 con giáp của Hàn Quốc gần giống với của Trung Quốc, với chỉ khác là con vật thứ tám là cừu (yang) thay vì là dê (yeomso), dù vậy từ yang mượn từ tiếng Trung có thể đề cập đến bất kỳ loài nào thuộc họ Dê cừu. 12 con giáp của Việt Nam thì gần giống với của Trung Quốc, với khác ở chỗ con vật thứ hai là trâu nước thay vì là bò, con vật thứ tư là mèo thay vì là thỏ. 12 con giáp của Nhật Bản thì là cừu (hitsuji) thay vì dê (yagi), và lợn rừng (inoshishi, i) thay vì heo (buta).[94]

Quan điểm thần học

Thời cổ đại

Thánh Augustinus ( 354 – 430 ) tin rằng thuyết định đoạt của chiêm tinh học xích míc với học thuyết của Cơ Đốc giáo về tự do ý chí và nghĩa vụ và trách nhiệm của con người, và Thiên Chúa không phải là nguồn cơn của cái ác. [ 95 ] Bên cạnh đó, ông cũng đưa ra cơ sở cho sự phản đối của ông về mặt triết học, với viện dẫn rằng chiêm tinh học thất bại trong việc lý giải cặp song sinh có hành vi khác nhau, mặc dầu chúng được thụ thai tại cùng một thời gian và sinh ra gần như cùng lúc. [ 96 ]

Một vài thực hành chiêm tinh thời Trung Cổ đã được các nhà thiên văn đạo Hồi như Al-Farabi (Alpharabius), Ibn al-Haytham (Alhazen) và Avicenna tranh luận dựa trên cơ sở thần học. Họ nói rằng cách của thuật chiêm tinh mâu thuẫn với quan điểm chính thống của các học giả Hồi giáo khi chiêm tinh học cho rằng có thể biết và tiên đoán được Ý chí của Allah.[97] Lấy Thí dụ, tác phẩm Risāla fī ibṭāl aḥkām al-nojūm của Avicenna lập luận phản bác việc thực hành chiêm tinh, nhưng lại ủng hộ nguyên tắc rằng các hành tinh có thể đóng vai trò là tác nhân của nhân quả thần thánh. Avicenna cho rằng chuyển động của các hành tinh định đoạt sự sống trên trái đất, nhưng ông phản đối tính khả thi của việc xác định ảnh hưởng của Tại sao một cách chính xác.[98] Về cơ bản, Avicenna không phủ nhận giáo điều cốt lõi của chiêm tinh học, với nhưng phủ nhận khả năng nhân loại hiểu biết về nó đến mức có thể đưa ra các dự đoán chính xác dựa trên thuyết định đoạt.[99] Trong cuốn Miftah Dar al-SaCadah, Ibn Qayyim al-Jawziyya (1292–1350) cũng sử dụng các phép lập luận vật lý trong thiên văn học để đặt ra câu hỏi về việc thực hành chiêm tinh học theo luật pháp.[100] Ông nhận ra các Tại sao có kích cỡ lớn hơn nhiều so với các hành tinh và nhận định:

Và nếu các nhà chiêm tinh học vấn đáp rằng giải thuyết trên đúng mực bởi khoảng cách và sự nhỏ bé này mà ảnh hưởng tác động của chúng là không đáng kể, thế tại sao các ông lại cho rằng có tác động ảnh hưởng lớn đến thiên thể nhỏ nhất là Sao Thủy ? Tại sao các ông lại tác động ảnh hưởng đến al-Ra và al-Dhanab, vốn là hai điểm tưởng tượng [ các điểm nút lên và điểm nút xuống ] ? [ 100 ]

Giáo lý phỏng vấn của Giáo hội Công giáo cho rằng bói toán ( gồm có cả tiên đoán bằng chiêm tinh ) không thích hợp với các tín ngưỡng Công giáo tân tiến, [ 101 ] Thí dụ điển hình như ý chí tự do : [ 96 ]

Tất cả các hình thức bói toán đều bị bác bỏ : việc nhờ đến quỷ Satan hoặc quỷ dữ, gọi hồn người chết hoặc các phép thực hành thực tế khác bị cho là ” bật mý ” tương lai một cách xô lệch. Tư vấn đoán số tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, và lý giải các điềm báo và số mệnh, các hiện tượng kỳ lạ thấu thị và cậy nhờ các bà đồng, toàn bộ chúng đều giấu diếm khao khát quyền lực vượt thời hạn, lịch sử vẻ vang và trong phép nghiên cứu và phân tích sau cuối, các con người khác cũng như mong ước chiếm đoạt các sức mạnh tiềm ẩn. Chúng xích míc với danh dự, tôn trọng và nỗi kinh sợ yêu thương mà tất cả chúng ta chỉ dành cho Chúa Trời mà thôi. [ 102 ]— Trích từ Giáo lý phỏng vấn của Giáo hội Công giáo

Phân tích khoa học và chỉ trích

Cộng đồng khoa học bác bỏ chiêm tinh học vì nó không có năng lực lý giải để định rõ thực chất của thiên hà. Chiêm tinh học cũng bị xem là giả khoa học. [ 103 ] [ 104 ] [ 105 ] : 1350 Thử nghiệm khoa học về chiêm tinh được triển khai, và không tìm ra vật chứng nào ủng hộ cho bất kể tiền đề hoặc ảnh hưởng tác động có chủ đích nào được vạch ra trong truyền thống cuội nguồn chiêm tinh. [ 11 ] : 424 ; [ 106 ] Mọi chính sách hoạt động giải trí được đặt ra mà theo đó, vị trí và hoạt động của các ngôi sao 5 cánh và hành tinh hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng đến con người và sự kiện trên Trái Đất, đều bị xích míc với góc nhìn cơ bản và được biết về sinh học và vật lý. [ 107 ] : 249 ; [ 108 ]Thiên kiến xác nhận là một dạng thiên kiến nhận thức, với một yếu tố tâm ý góp thêm phần tạo nên niềm tin về chiêm tinh học. [ 109 ] : 344 ; [ 110 ] : 180 – 181 ; [ 111 ] : 42 – 48 [ 112 ] : 553 các Fan Hâm mộ chiêm tinh có khuynh hướng ghi nhớ một cách tinh lọc các Dự kiến thành thực sự và không ghi nhớ các Dự kiến thành ra không đúng. Một hình thức khác của thiên kiến xác nhận cũng đóng một vai trò quan trọng không kém, đó là các Fan Hâm mộ thường không Nhận biết được giữa các thông điệp biểu lộ rõ năng lực đặc biệt quan trọng và các thông điệp không bộc lộ rõ năng lực đó. [ 110 ] : 180 – 181 Do đó, có 2 hình thức thiên kiến xác nhận riêng không liên quan gì đến nhau đang được điều tra và nghiên cứu tương quan đến niềm tin về chiêm tinh. [ 110 ] : 180 – 181

Phân định ranh giới

Theo tiêu chuẩn về năng lực phản nghiệm do nhà triết học khoa học Karl Popper yêu cầu, thì chiêm tinh học là giả khoa học. [ 113 ] Popper coi chiêm tinh học là ” giả thực nghiệm ” ở chỗ ” nó lôi kéo quan sát và thí nghiệm “, ” Tuy vậy nó không đạt tiêu chuẩn khoa học “. [ 114 ] Trái ngược với các môn khoa học, với chiêm tinh học không cung ứng năng lực phản nghiệm trải qua thí nghiệm. [ 115 ] : 206Trái với Popper, nhà triết học Thomas Kuhn cho rằng không phải vì thiếu năng lực phản nghiệm mà chiêm tinh là giả khoa học, với mà đúng hơn là quá trình và khái niệm của chiêm tinh học là phi thực nghiệm. [ 116 ] : 401 Kuhn nghĩ rằng mặc dầu trong lịch sử dân tộc, với các nhà chiêm tinh đã đưa ra các Dự kiến thất bại một cách rõ ràng, nhưng bản thân điều này không khiến cho chiêm tinh học phi khoa học, với cũng chẳng phải là do các nhà chiêm tinh cố biện minh cho thất bại bằng cách công bố rằng tạo ra mạng lưới hệ thống horoscope rất khó. Theo quan điểm của Kuhn thì chiêm tinh học không phải là khoa học vì nó xưa giờ na ná với y học thời Trung Cổ hơn. Các nhà chiêm tinh đã tuân theo chuỗi quy tắc và hướng dẫn cho một nghành nghề dịch vụ có vẻ như thiết yếu, mà họ vẫn biết là có các khiếm khuyết nhất định, nhưng họ không điều tra và nghiên cứu vì nghành nghề dịch vụ này không hề điều tra và nghiên cứu được, với [ 117 ] : 8 và do đó ” họ không có câu đố nào để giải và do đó không có khoa học để thực hành thực tế. ” [ 116 ] : 401 ; [ 117 ] : 8 Nhà thiên văn hoàn toàn có thể sửa sai nhưng nhà chiêm tinh thì không. Nhà chiêm tinh hoàn toàn có thể biện minh cho thất bại nhưng không hề sửa giả thuyết chiêm tinh theo hướng có nghĩa hơn. Do đó, so với Kuhn, ngay cả khi các ngôi sao 5 cánh hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động đến đường đời của con người thì đó cũng không phải là khoa học. [ 117 ] : 8Nhà triết học Paul Thagard khẳng định chắc chắn rằng chiêm tinh học không hề bị coi là phản nghiệm ( tức là bị xích míc với bằng chứng thực nghiệm ) cho đến khi nó tìm ra cách giải nghĩa khác tương thích hơn. Trong trường hợp Dự kiến hành vi, tâm lý học là lựa chọn thay thế sửa chữa. [ 4 ] : 228 Đối với Thagard, một tiêu chuẩn khác để phân định khoa học với giả khoa học là nghành khoa học đó phải tân tiến và hội đồng nhà nghiên cứu nên so sánh triết lý hiện tại với kim chỉ nan khả thi khác, với và không được ” kén chọn trong việc xem xét các kiểm chứng và bất kiểm chứng. ” [ 4 ] : 227 – 228 Tiến bộ theo định nghĩa ở đây là lý giải được hiện tượng kỳ lạ mới và xử lý được yếu tố hiện hữu, nhưng chiêm tinh học không tân tiến lên khi chỉ biến hóa rất ít trong gần 2000 năm. [ 4 ] : 228 [ 118 ] : 549 Theo Thagard, các nhà chiêm tinh đang hoạt động giải trí như thể là tham gia vào khoa học thông thường, họ tin rằng chiêm tinh có nền tảng kiến thiết xây dựng tốt mặc dầu còn ” nhiều yếu tố chưa được xử lý “, và phải đương đầu với kim chỉ nan sửa chữa thay thế tốt hơn ( tâm lý học ). Vì các nguyên do này, và Thagard xem chiêm tinh học là giả khoa học. [ 4 ] [ 118 ]Đối với nhà triết học Edward W. James, chiêm tinh học bất hài hòa và hợp lý không phải vì có vô số yếu tố về chính sách và năng lực phản nghiệm trải qua thí nghiệm, mà là vì nó bị sa vào ngụy biện và lý luận kém ( theo một nghiên cứu và phân tích về tài liệu chiêm tinh ). [ 119 ] : 34

Tính hiệu suất cao

Chiêm tinh học không chứng minh được hiệu quả của nó trong các nghiên cứu có kiểm chứng và không có giá trị khoa học.[120]:85;[11] Khi chiêm tinh học đưa ra các dự đoán có khả năng phản nghiệm trong hoàn cảnh thí nghiệm, chúng đã bị chứng minh là sai.[11]:424 Có một thí nghiệm nổi tiếng bao gồm 28 nhà chiêm tinh, họ được yêu cầu so sánh giữa hơn 100 biểu đồ ngày sinh với hồ sơ tâm lý được tạo ra dựa trên bản câu hỏi Kiểm tra Tâm lý California.[121][122] Quy tắc thí nghiệm mù đôi được sử dụng trong nghiên cứu này được đồng ý bởi một nhóm nhà vật lý và nhóm nhà chiêm tinh[11] do Hội đồng nghiên cứu Geocosmic Quốc gia (N.C.G.R) đề xuất. những người này đã tư vấn cho những người làm thí nghiệm, giúp đảm bảo rằng cuộc kiểm tra là công bằng[10]:420;[122]:117 và hỗ trợ đề ra kế hoạch trọng tâm của việc kiểm nghiệm biểu đồ ngày sinh.[10]:419 Họ cũng chọn ra 26 trong 28 nhà chiêm tinh cho các bài kiểm tra (sau đó có thêm 2 người nữa tình nguyện).[10]:420 Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature năm 1985 cho thấy các dự đoán dựa trên biểu đồ ngày sinh không tốt hơn hên xui may rủi là bao, và cuộc kiểm tra “hoàn toàn bác bỏ giả thuyết chiêm tinh.”[10]

Năm 1955, nhà chiêm tinh và tâm lý học Michel Gauquelin tuyên bố rằng mặc dù ông không tìm ra dấu hiệu nào chứng tỏ cung hoàng đạo và khía cạnh hành tinh trong chiêm tinh là có thật, nhưng ông tìm thấy mối tương quan rõ ràng giữa vị trí ngày của Một vài hành tinh với thành công trong sự nghiệp, điều mà chiêm tinh học thường liên kết với hành tinh đó.[123][124] Phát hiện nổi tiếng nhất mà Gauquelin tạo ra là dựa trên vị trí của Sao Hỏa trong biểu đồ ngày sinh của các vận động viên thành đạt, và nó được gọi là hiệu ứng Sao Hỏa.[125]:213 Bảy nhà khoa học người Pháp đã thực hiện một nghiên cứu để tái tạo phát hiện của Gauquelin, nhưng không tìm ra bằng chứng thống kê.[125]:213–214 Họ cho rằng Gauquelin nghĩ ra hiệu ứng này là do thiên kiến trong việc lựa chọn thông tin, cáo buộc Gauquelin đã cố thuyết phục họ thêm hoặc xóa tên từ nghiên cứu của họ.[126]

Geoffrey Dean cho rằng hiệu ứng có thể là kết quả của việc tự khai báo ngày sinh của phụ huynh họ hơn là bất kỳ vấn đề nào trong nghiên cứu của Gauquelin. Có khả năng là các bậc phụ huynh đã thay đổi giờ sinh sao cho phù hợp với biểu đồ chiêm tinh cho một ngành nghề liên quan hơn. Mẫu nghiên cứu này thu thập vào thời điểm mà niềm tin vào chiêm tinh còn phổ biến. Gauquelin đã thất bại trong việc tìm ra hiệu ứng Sao Hỏa trong dân số hiện tại, khi mà người ghi chép lại thông tin ngày sinh là các bác sĩ và y tá. Số lượng các ca sinh không thuận theo quy ước của chiêm tinh học cũng giảm dần đi, càng chứng minh cho luận điểm rằng các bậc phụ huynh đã chọn ngày giờ phù hợp với tín ngưỡng của họ.[122]:116

Thiếu chính sách hoạt động giải trí và tính đồng điệu

Việc kiểm tra hiệu lực thực thi hiện hành của chiêm tinh hoàn toàn có thể gây khó khăn vất vả, chính do không có sự đồng nhất giữa các chiêm tinh gia về định nghĩa chiêm tinh là gì hoặc nó thể Dự kiến các gì. [ 120 ] : 83 Hầu hết các chiêm tinh gia chuyên nghiệp được trả tiền để Dự kiến tương lai hoặc miêu tả tính cách và cuộc sống của một con người, Tuy vậy hầu hết các lá số tử vi chỉ đưa ra các thông tin mơ hồ không hề kiểm chứng được, với hoàn toàn có thể vận dụng cho gần như toàn bộ mọi người. [ 120 ] [ 111 ] : 83 Nhiều chiêm tinh gia cho rằng chiêm tinh là khoa học, với [ 127 ] trong khi Một vài ít khác tác nhân nhân quả thường thì như điện từ học và lực mê hoặc. [ 127 ] Các nhà khoa học bác bở các chính sách này và thấy chúng bất hài hòa và hợp lý [ 127 ], Thí dụ như từ trường ( được đo từ Trái Đất ) của một hành tinh lớn nhưng xa xôi như Sao Mộc lại nhỏ hơn nhiều so với từ trường do các thiết bị gia dụng thông thường tạo ra. [ 128 ]

Chiêm tinh phương Tây đã tính đến trục quay (hay còn gọi là tiến động của điểm phân) kể từ cuốn Almagest của Ptolemy, và vì thế mà “điểm đầu tiên của chòm Bạch Dương” (tức bắt đầu năm chiêm tinh) liên tục di chuyển trên nền của các Tại sao.[129] Cung hoàng đạo nhiệt đới không có liên hệ nào tới các Tại sao, và miễn là không có luận điệu nào được đưa ra cho thấy chính các chòm sao nằm trong Cung liên quan, các chiêm tinh gia bác bỏ quan niệm rằng tiền động dường như làm dịch chuyển các chòm sao.[130] Charpak và Broch để ý tới điều này, và ví chiêm tinh dựa trên cung hoàng đạo nhiệt đới là “…các chiếc hộp trống rỗng chẳng có liên hệ với bất cứ thứ gì và chẳng hề nhất quán hay tương thích với các Tại sao.”[130] Việc sử dụng duy nhất cung hoàng đạo nhiệt đới không nhất quán với các tham chiếu mà chính các chiêm tinh gia đưa ra nhắc đến Kỷ nguyên Bảo Bình, vốn phụ thuộc vào thời điểm mà điểm mùa xuân đi vào chòm sao Bảo Bình.[11]

các chiêm tinh gia thường có hiểu biết ít về thiên văn, và thường không tính đến các nguyên tắc cơ bản — Thí dụ điển hình như tiến động của điểm phân làm đổi khác vị trí của mặt trời theo thời hạn. Họ phản hồi về Thí dụ của Élizabeth Teissier – cô từng công bố rằng ” Mặt trời dừng chân ở cùng vị trí trên khung trời vào cùng ngày mỗi năm “, làm cơ sở cho luận cứ cho rằng hai người có cùng ngày sinh, Tuy vậy chào đời cách nhau 1 số ít năm nên chịu ảnh hưởng tác động của cùng hành tinh. Charpak và Broch quan tâm : ” Chẳng có độc lạ về khoảng cách 20.000 dặm giữa giữa vị trí của Trái Đất ở bất kỳ ngày đơn cử nào trong hai năm liên tục “, và do đó chúng không nên chịu cùng ảnh hưởng tác động theo như chiêm tinh học. Trong quãng thời hạn hơn 40 năm sẽ có sự độc lạ lớn hơn 780.000 dặm. [ 130 ]

Tác động văn hóa truyền thống

Chính trị và xã hội phương Tây

Ở phương Tây, và đôi lúc các chỉ huy chính trị tìm đến các chiêm tinh gia xin tư vấn. Thí dụ, Cơ quan tình báo Anh Quốc MI5 đã tuyển dụng Louis de Wohl làm nhà chiêm tinh sau khi có các thông tin cho rằng Adolf Hitler từng dùng chiêm tinh để giám sát các hành vi của ông. Văn phòng Chiến tranh ” … muốn biết các chiêm tinh gia riêng của Hitler sẽ nói với ông các gì từ tuần này qua tuần khác. ” [ 131 ] Thực tế, các phán đoán của de Wohl rơi lệch đến mức ông sớm bị gắn biệt danh là ” tên lang băm toàn tập, ” và dẫn chứng sau này cho thấy Hitler xem chiêm tinh là ” thứ trọn vẹn vô bổ. ” [ 132 ] Sau vụ ám sát hụt Tống thống Mỹ Ronald Reagan của John Hinckley, và Đệ nhất phu nhân Nancy Reagan đã ủy nhiệm chiêm tinh gia Joan Quigley hoạt động giải trí dưới vai trò chiêm tinh gia bí hiểm của White House. Tuy vậy, và tin Quigley mất việc vào năm 1988 được bật mý với công chúng trải qua hồi ký của nguyên tổng tham mưu trưởng Donald Regan. [ 133 ]

Chiêm tinh học từng trở thành cơn sốt được quan tâm vào cuối thập niên 1960s. Nhà xã hội học Marcello Truzzi miêu tả ba mức độ tham gia của “các tín đồ chiêm tinh” nhằm giải thích cho sự tái phổ biến của nó khi đối mặt với tai tiếng từ giới khoa học. Ông thấy rằng hầu hết các tín đồ chiêm tinh không cho rằng nó là một phép giải thích khoa học với năng lực tiên đoán. Thay vào đó, những người này tham gia một cách hời hợt, “gần như không biết gì” về các ‘cơ chế’ của chiêm tinh, họ đọc về chiêm tinh trên các cột báo, và có thể được lợi từ “quản lý căng thẳng của nỗi lo âu” và “một hệ thống tín ngưỡng nhận thức vượt ngoài khoa học.”[134] những người ở mức độ hai thường đi xem lá số tử vi rồi tìm kiếm lời khuyên và các dự đoán. Họ trẻ hơn nhiều so với những người ở cấp độ đầu tiên, và có thể hưởng lợi từ hiểu biết về ngôn ngữ chiêm tinh và kết quả là có khả năng thuộc về một nhóm gắn kết và riêng biệt. những người ở cấp độ ba tham gia với tần suất lớn và thường xem lá số tử vi cho chính họ. Chiêm tinh đem đến bộ phận nhỏ các tín đồ chiêm này một góc nhìn “ý nghĩa về vũ trụ và [giúp] họ hiểu về vị trí của mình trong vũ trụ.”[a] Nhóm thứ ba này xem trọng chiêm tinh một cách nghiêm túc, với có thể như một mái che thiêng liêng, trong khi hai nhóm kia xem nó như thú vui và đùa cợt.[134]

Năm 1953, nhà xã hội học Theodor W. Adorno đã thực thi nghiên cứu và điều tra về cột chiêm tinh trên một tờ báo của Los Angeles như một phần của dự án Bất Động Sản nghiên cứu và điều tra về văn hóa truyền thống đại chúng trong xã hội tư bản. [ 135 ] : 326 Adorno tin rằng chiêm tinh học phổ cập giống như một thiết bị luôn luôn dẫn tới các công bố cổ động sự tuân thủ — và các chiêm tinh gia đi ngược với sự tuân thủ ấy bằng cách không khuyến khích hiệu suất thao tác, với rủi ro đáng tiếc mất việc. [ 135 ] : 327 Adorno Kết luận rằng chiêm tinh là một phép biểu lộ quy mô lớn của thuyết không bình thường mạng lưới hệ thống, nơi các cá thể bị tinh chỉnh và điều khiển một cách phức tạp — trải qua các tổng hợp mơ hồ và tâng bốc — nhằm mục đích tin rằng tác giả cột báo đang trò chuyện trực tiếp với họ. [ 136 ] Adorno suy ra một phép so sánh tương tự cụm từ thuốc phiện của nhân dân của Karl Marx bằng lời bình : ” thuyết huyền bí là lời nói suông của các kẻ ngu dốt. ” [ 135 ] : 329

Một cuộc thăm dò của Gallup năm 2005 và khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew năm 2009 cho thấy 25% người trưởng thành ở Mỹ tin vào chiêm tinh.[137][138] Theo dữ liệu được công bố trong nghiên cứu các chỉ số khoa học và kĩ thuật (2014) của Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF), “Ít người Mỹ bác bỏ chiêm tinh vào năm 2012 hơn so với các năm gần đây.”[139] Nghiên cứu của NSF lưu ý rằng vào năm 2012, “hơn nửa số người Mỹ nói rằng chiêm tinh ‘hoàn toàn không phải khoa học’, trong khi gần hai phần ba dân số đưa ra câu trả lời này vào năm 2010. Tỷ lệ tương đương đã không tụt đến mức này kể từ năm 1983.”[139]

Ấn Độ và Nhật Bản

Tỉ lệ sinh ( màu xanh ) và ( tử ) của Nhật Bản kể từ năm 1950, trong đó tỉ lệ sinh sụt giảm bất thần trong năm Bính Ngọ ( 1966 )Tại Ấn Độ, một tín ngưỡng chiêm tinh đã được hình thành từ truyền kiếp và trở nên thông dụng. Nó thường được sử dụng trong đời sống hàng ngày, và đặc biệt quan trọng là trong các yếu tố tương quan đến hôn nhân gia đình và sự nghiệp, ngoài các còn ứng dụng đại trà phổ thông trong chiêm tinh bầu cử, hàng giờ và nghiệp. [ 140 ] [ 141 ] các chính trị gia của Ấn Độ cũng chịu tác động ảnh hưởng bởi chiêm tinh. [ 142 ] Nó cũng được xem là một nhánh của đạo Vedanga. [ 143 ] [ 144 ] Năm 2001, các nhà khoa học và chính trị gia của Ấn Độ đã tranh luận và phê phán yêu cầu sử dụng tiền của nhà nước để hỗ trợ vốn cho nghiên cứu và điều tra về chiêm tinh, [ 145 ] làm cho các trường ĐH ở Ấn Độ được phép mở các khóa học dạy chiêm tinh Vệ Đà. [ 146 ] Tháng 2 năm 2011, Tòa án tối cao Bombay tái khẳng định chắc chắn chỗ đứng của chiêm tinh tại Ấn Độ khi bác bỏ một vụ án thử thách danh nghĩa khoa học của nó. [ 147 ]Tại Nhật Bản, niềm tin mãnh liệt vào chiêm tinh là nguyên do làm đổi khác can đảm và mạnh mẽ tỷ suất sinh và số ca phá thai trong năm Giáp Ngọ. các Fan Hâm mộ tin rằng phụ nữ sinh vào các năm Bính Ngọ sẽ không hề kết hôn và gieo vận rủi cho cha hoặc chồng họ. Năm 1966, số lượng bé tại Nhật Bản giảm hơn 25 % do các bậc cha mẹ cố tránh bị tẩy chay vì sinh con gái vào năm Bính Ngọ. [ 148 ] [ 149 ]

Văn học và âm nhạc

The Woman in the Moon của Trang tiêu đề vở kịch chiêmcủa John Lyly vào năm 1597 .

Ở thế kỉ 14, hai nhà thơ người Anh John Gower và Geoffrey Chaucer đều nhắc đến chiêm tinh trong các tác phẩm của họ, cụ thể là Confessio Amantis của Gower và The Canterbury Tales của Chaucer.[150] Chaucer bình luận chi tiết về chiêm tinh trong tác phẩm Treatise on the Astrolabe, trình bày kiến thức cá nhân của một lĩnh vực (chiêm tinh tư pháp) với một lời giải thích cách tìm cung mọc.[151] Ở thế kỉ 15, các chi tiết liên hệ đến thiên văn học như lối so sánh trở thành “vấn đề nghiễm nhiên” trong văn học Anh.[150]

Ở thế kỉ 16, vở kịch The Woman in the Moon (1597) của John Lyly lấy động cơ hoàn toàn từ chiêm tinh học, với[152] trong khi Christopher Marlowe mang các chi tiết liên hệ chiêm tinh trong các vở kịch Doctor Faustus và Tamburlaine (đều vào khoảng năm 1590),[152] còn Sir Philip Sidney nhắc đến chiêm tinh ít nhất 4 lần trong tác phẩm văn học kị sĩ The Countess of Pembroke’s Arcadia (khoảng năm 1580).[152] Edmund Spenser sử dụng chiêm tinh cả về mặt tô điểm lẫn quan hệ nhân quả trong thơ của mình, cho thấy “…đây rõ ràng là một niềm thích thú vĩnh cửu trong nghệ thuật, một niềm thích thú được sẻ chia bởi một lượng lớn các nhân vật cùng thời với ông.”[152] Tương tự, vở kịch Byron’s Conspiracy (1608) của George Chapman sử dụng chiêm tinh là cơ chế nhân quả trong tác phẩm của mình.[153] Quan điểm của William Shakespeare đối với chiêm tinh thì lại mập mờ với các chi tiết liên hệ mâu thuẫn trong các vở kịch như King Lear, Antony and Cleopatra và Richard II.[153] Shakespeare thân thuộc với chiêm tinh và sử dụng vốn hiểu biết của ông về chiêm tinh trong hầu kết mọi vở kịch mà ông chắp bút,[153] cho thấy về cơ bản thì khán giả thương mại của ông đã quen thuộc với đề tài này.[153] Ngoài nhà hát, bác sĩ kiêm nhà huyền bí học Robert Fludd đã thực hành chiêm tinh giống như bác sĩ lang băm Simon Forman.[153] Ở Anh thời Elizabeth, “Cảm giác thông thường về chiêm tinh … [là] nó hữu ích nhất trong các ngành khoa học.”[153]

Tại Tây Ban Nha vào thế kỉ 17, với vốn hiểu biết tường tận về chiêm tinh, Lope de Vega đã viết ra các vở kịch chế nhạo chiêm tinh. Trong tác phẩm lãng mạn đồng quê La Arcadia (1598), chiêm tinh dẫn đến điều ngớ ngẩn; trong cuốn novela Guzman el Bravo (1624), ông kết luận rằng các Tại sao được tạo ra cho con người, chứ không phải con người được tạo ra cho các Tại sao.[154] Calderón de la Barca thì viết vở hài kịchAstrologo Fingido (Nhà chiêm tinh giả) vào năm 1641; cốt truyện được nhà viết kịch người Pháp Thomas Corneille vay mượn cho vở hài kịch Feint Astrologue của ông vào nấm.[155]

Tác phẩm âm nhạc nổi tiếng nhất chịu ảnh hưởng của chiêm tinh là vở nhạc giao hưởng The Planets. Được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Anh Gustav Holst (1874–1934) và lần đầu trình diễn vào năm 1918, cốt truyện The Planets dựa trên các biểu tượng chiêm tinh của các hành tinh.[156] Mỗi phần trong tổng số 7 phần của tác phẩm dựa trên một hành tinh khác nhau, dù cho các phần không xếp theo trật tự các hành tinh từ Mặt Trời. Nhà soạn nhạc Colin Matthews thì viết một nhạc phẩm gồm 8 phần có nhan đề Pluto, the Renewer, lần đầu được trình diễn vào năm 2000.[157] Năm 1937, một nhà soạn nhạc người Anh nữa là Constant Lambert chắp bút một vở ballet dựa trên các đề tài chiêm tinh, có tên là Horoscope.[158] Năm 1974, nhà soạn nhạc người New Zealand Edwin Carr viết tác phẩm The Twelve Signs: An Astrological Entertainment cho dàn nhạc không có đàn dây.[159] Camille Paglia thì thừa nhận chiêm tinh có ảnh hưởng trong tác phẩm phê bình văn học Sexual Personae (1990) của cô.[160] Chiêm tinh còn vô cùng nổi bật trong The Luminaries của Eleanor Catton, tác phẩm văn học giành giải Booker 2013.[161]

Ghi chú

^ nguyên văn là chữ in nghiêng .

Chú thích

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin