Đồ gốm được hiểu như thế nào?

Một thợ gốm tại nơi thao tác ở Morena, Ấn Độ

Đồ gốm là các sản phẩm chứa đựng được tạo hình và các đồ vật khác bằng đất sét và các vật liệu gốm khác, được nung ở nhiệt độ cao để tạo cho chúng một hình dạng cứng và bền. Các loại chính bao gồm đồ đất nung, đồ sành và đồ sứ. Nghề gốm là nghề hay quy trình sản xuất các sản phẩm như vậy. Nơi mà các đồ gốm như vậy được làm bởi một thợ gốm được gọi là xưởng gốm. Định nghĩa về đồ gốm được Hiệp hội Thử nghiệm và Vật liệu Hoa Kỳ (ASTM) sử dụng là “tất cả các loại gốm nung có chứa đất sét khi hình thành, ngoại trừ các sản phẩm kỹ thuật, kết cấu và vật liệu chịu lửa”. Trong khảo cổ học, đặc biệt là thời kỳ cổ đại và tiền sử, “đồ gốm” thường chỉ có nghĩa là các loại lọ, chai, bình, chum, vại, còn các loại hình vật hay người làm từ cùng một vật liệu được gọi là “terracotta”. Đất sét như là một phần của vật liệu được sử dụng được yêu cầu bởi một vài định nghĩa về gốm, nhưng điều này là không rõ ràng.

Đồ gốm là một trong những phát minh lâu đời nhất của con người, có nguồn gốc từ thời kỳ đồ đá mới, với các đồ vật bằng gốm như bức tượng Vệ nữ Dolní Věstonice thuộc văn hóa Gravette được phát hiện ở Cộng hòa Séc có niên đại từ 29000-25000 TCN, và các bình gốm được phát hiện tại Giang Tây, Trung Quốc, có niên đại tới 18000 TCN. Các cổ vật gốm thời đồ đá mới và tiền đồ đá mới đã được tìm thấy, ở Jōmon Nhật Bản (10500 TCN), Viễn Đông Nga (14000 TCN), châu Phi hạ Sahara (9400 TCN), Nam Mỹ (9000-7000 TCN), và Trung Đông (7000 – 6000 TCN).

Đồ gốm được hiểu như thế nào?

Bạn đang đọc: Đồ gốm được hiểu như thế nào?

Đồ gốm được sản xuất bằng phương pháp tạo hình cho xương gốm ( thường là đất sét ) thành những vật phẩm có hình dạng mong ước và nung chúng đến nhiệt độ cao ( 600 – 1600 °C ) trong những đống lửa, hố nung hoặc lò nung và gây ra những phản ứng dẫn đến đổi khác vĩnh viễn làm tăng mức độ và độ cứng của vật phẩm. Nhiều đồ gốm là trọn vẹn thực dụng, nhưng một vài ít cũng hoàn toàn có thể được coi là đồ gốm mỹ nghệ. Một tạo hình đất sét hoàn toàn có thể được trang trí trước hoặc sau khi nung . Hũ làm từ đất sét ( Ghaila ) ở Nepal . Gốm truyền thống lịch sử, Bangladesh .Đồ gốm bằng đất sét hoàn toàn có thể được chia thành ba nhóm chính : đồ đất sét, đồ sành và đồ sứ. Chúng yên cầu vật tư đất sét ngày càng đơn cử hơn, và nhiệt độ nung ngày càng cao. Cả ba được làm thành những vật phẩm tráng men và không tráng men, ship hàng cho những mục tiêu khác nhau. Tất cả cũng hoàn toàn có thể được trang trí bởi những kỹ thuật khác nhau. Trong nhiều ví dụ, một đồ gốm thuộc về nhóm nào là rõ ràng ngay lập tức, nhưng điều này không phải khi nào cũng đúng. Các đồ gốm frit của quốc tế Hồi giáo không sử dụng đất sét, vì thế về mặt kỹ thuật nằm ngoài những nhóm này. Đồ gốm lịch sử vẻ vang của tổng thể những loại này thường được nhóm lại hoặc như là đồ gốm ” hạng sang “, ” tinh xảo “, tương đối đắt tiền và được làm tỉ mỉ, kỹ càng, cẩn trọng, và theo quan điểm thẩm mỹ và nghệ thuật của văn hóa truyền thống có tương quan, hoặc thay vào đó như là đồ gốm ” thô lậu “, ” phổ cập “, ” dân gian ” hoặc ” quê mùa “, hầu hết không được trang trí, hoặc rất đơn thuần và thường được làm không kỹ càng .

Những loại chính

Đồ đất sét

Tất cả những hình thức gốm sớm nhất được làm từ đất sét nung ở nhiệt độ thấp, khởi đầu là trong những hố nung hoặc trong những đống lửa ngoài trời. Chúng được nặn bằng tay và chưa được trang trí. Đồ đất sét hoàn toàn có thể được nung ở nhiệt độ thấp chỉ 600 °C, và thường được nung dưới 1.200 °C. Bởi vì đồ đất sét mộc không tráng men là xốp nên nó có tính thiết thực hạn chế trong việc tàng trữ chất lỏng hoặc làm bộ đồ ăn. Tuy nhiên, đồ đất sét đã có một lịch sử dân tộc liên tục từ thời kỳ đồ đá mới cho đến thời nay. Nó hoàn toàn có thể được tạo ra từ nhiều loại đất sét, một vài ít trong đó được nung để có màu nâu, nâu da bò hoặc đen, với sắt trong những khoáng vật cấu thành dẫn đến màu nâu đỏ. Các loại màu đỏ được gọi là terracotta ( đất sét ), đặc biệt quan trọng là khi không tráng men hoặc được sử dụng trong điêu khắc. Sự tăng trưởng của men gốm làm cho gốm không thấm nước trở thành hoàn toàn có thể, cải tổ tính phổ cập và tính trong thực tiễn của đồ đựng bằng gốm. Việc bổ trợ trang trí cho đồ đất sét đã tăng trưởng trong suốt lịch sử vẻ vang của nó . Đồ sành là đồ gốm được nung trong lò nung ở nhiệt độ tương đối cao, từ khoảng chừng 1.100 °C đến 1.200 °C, cứng hơn và không thấm so với chất lỏng. Người Trung Quốc đã tăng trưởng đồ sành từ rất sớm và phân loại đồ sành cùng với đồ sứ là đồ gốm hạng sang. trái lại, đồ sành chỉ hoàn toàn có thể được sản xuất ở châu u từ cuối thời trung cổ, vì những lò nung ở châu u kém hiệu suất cao hơn, và loại đất sét tương thích cũng ít phổ cập hơn. Nó vẫn là một vật phẩm đắt tiền ở Đức cho đến thời Phục hưng. Đồ sành rất cứng và hữu dụng, và phần đông luôn luôn mang tính thực dụng dành cho phòng bếp hoặc để làm đồ đựng hơn là đồ đặt trên bàn. Nhưng đồ sành ” mỹ nghệ ” được coi trọng ở Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây, và liên tục được sản xuất. Nhiều mô hình đồ sành thực dụng cũng đã được nhìn nhận cao như một dạng đồ mỹ nghệ . Sứ được làm bằng vật tư gia nhiệt, thường gồm có cao lanh, trong lò nung đến nhiệt độ từ 1.200 và 1.400 °C ( 2.200 và 2.600 °F ). Nhiệt độ này cao hơn so với sử dụng cho những loại khác, và đạt được những nhiệt độ này cũng như nhận ra những vật tư thiết yếu là một thử thách lâu bền hơn. Độ dai, độ cứng và độ trong của sứ, so với những loại gốm khác, phát sinh đa phần từ thủy tinh hóa và sự hình thành của khoáng vật mullit trong tạo hình ở những nhiệt độ cao này .Mặc dù đồ sứ lần tiên phong được sản xuất tại Trung Quốc, nhưng theo truyền thống cuội nguồn, người Trung Quốc không coi nó là một loại độc lạ, nhóm nó với đồ sành là đồ gốm ” cao lửa ” ( 瓷, từ ), trái ngược với đồ đất sét là đồ gốm ” thấp lửa ” ( 陶, đào ). Điều này gây nhầm lẫn khi đồ sứ lần tiên phong được tạo ra. Độ trong mờ và độ trắng nhất định đã đạt được từ thời Đường ( 618 – 906 ), và một lượng đáng kể đồ sứ đã được xuất khẩu. Tuy nhiên, độ trắng tân tiến chỉ đạt được muộn hơn, trong thế kỷ 14. Đồ sứ cũng được sản xuất tại Triều Tiên và Nhật Bản từ cuối thế kỷ 16, sau khi cao lanh tương thích được tìm ra tại những vương quốc đó. Đồ sứ không được sản xuất một phương pháp hiệu suất cao bên ngoài Đông Á cho đến thế kỷ 18.

Các quy trình sản xuất

Trước khi được định hình, đất sét phải được sẵn sàng chuẩn bị. Nhào trộn giúp bảo vệ nhiệt độ đều khắp trong khối đất. Không khí bị mắc kẹt trong đất sét cần phải được vô hiệu. Điều này được gọi là khử không khí và hoàn toàn có thể được triển khai bằng một máy gọi là máy nhào đất chân không hoặc bằng tay bằng phương pháp lèn. Lèn cũng hoàn toàn có thể giúp tạo ra một độ ẩm đồng đều. Một khi khối đất sét đã được nhào trộn và khử khí hoặc lèn, nó được tạo hình bởi một loạt những kỹ thuật. Sau khi đã được định hình, nó được sấy khô và sau đó đưa vào nung .

Gốm sống hay gốm mộc (greenware) đề cập đến các đồ vật chưa nung. Ở độ ẩm vừa đủ, xương gốm ở giai đoạn này ở dạng dẻo nhất (vì chúng mềm và dễ uốn, do đó có thể dễ dàng bị biến dạng khi xử lý).Gốm cứng da (leather-hard) sử dụng để chỉ xương gốm đất sét đã được sấy khô một phần. Ở giai đoạn này, các xương gốm đất sét có độ ẩm xấp xỉ 15%. Xương gốm đất sét ở giai đoạn này là rất rắn chắc và chỉ hơi dẻo. Xén tỉa và xử lý đính kèm thường xảy ra ở trạng thái gốm cứng da.Gốm khô xương là nói đến các xương gốm đất sét khi chúng đạt đến độ ẩm ở mức hoặc gần 0%. Ở độ ẩm này thì vật phẩm đã sẵn sàng để nung.Gốm nung mộc (biscuit / bisque)[12] sử dụng để chỉ đất sét sau khi đồ vật được định hình thành dạng mong muốn và được nung lần đầu tiên trong lò nung, được gọi là “nung mộc”. Việc nung này làm thay đổi xương gốm đất sét theo nhiều phương pháp . Thành phần khoáng vật của xương gốm đất sét sẽ trải qua những thay đổi hóa học và vật lý làm thay đổi vật liệu.Nung men (glaze fired) hoặc nung tráng men (glost fired) là công đoạn cuối cùng trong sản xuất một vài đồ gốm.[13] Một lớp men có thể được đắp/quét vào dạng nung mộc và đồ vật có thể được trang trí theo nhiều phương pháp . Sau đó, đồ vật được “nung men”, làm cho vật liệu men nóng chảy và bám dính vào đồ vật. Tùy thuộc vào lịch trình nhiệt độ, việc nung men cũng có thể làm cho xương gốm hoàn thiện thêm do các thay đổi hóa học và vật lý vẫn tiếp tục.

Xương đất sét và hàm lượng khoáng vật

Chuẩn bị đất sét để làm đồ gốm ở Ấn Độ

Xương hay thân là các thuật ngữ để chỉ hình dạng gốm chính của một vật, nằm phía dưới bất kỳ lớp men hoặc trang trí nào. Thành phần chính của xương là đất sét. Có một vài vật liệu được gọi là đất sét. Các tính chất làm cho chúng khác nhau bao gồm: Độ dẻo là tính dễ uốn của xương; độ thấm nước là mức độ mà chúng hấp thụ nước sau khi nung; và độ co ngót là mức độ thu nhỏ kích thước của xương khi nước được loại bỏ. Các xương đất sét khác nhau cũng khác nhau theo phương pháp mà chúng phản ứng khi nung trong lò. Một xươg đất sét có thể được trang trí trước hoặc sau khi nung. Trước một vài quá trình định hình, đất sét phải được chuẩn bị. Mỗi loại đất sét khác nhau này bao gồm các loại và các lượng khoáng vật khác nhau xác định các đặc tính của đồ gốm tạo ra. Có thể có các khác biệt khu vực về các tính chất của nguyên liệu thô được sử dụng để sản xuất đồ gốm, và những điều này có thể dẫn đến các sản phẩm độc đáo có đặc trưng địa phương. Thông thường, đất sét và các vật liệu khác được trộn lẫn để tạo ra các xương đất sét phù hợp với các mục đích cụ thể. Một thành phần thông dụng của các xương đất sét là khoáng vật kaolinit. Các khoáng vật khác trong đất sét, chẳng hạn như fenspat, hoạt động như các chất trợ dung làm giảm nhiệt độ thủy tinh hóa của xương. Sau đây là danh sách các loại đất sét khác nhau được sử dụng để làm đồ gốm.[14]

Cao lanh, đôi khi được gọi là đất sét Trung Quốc vì nó lần đầu tiên được sử dụng ở Trung Quốc. Dùng làm sứ.Đất sét viên hay đất sét dẻo: Một loại đất sét trầm tích hạt mịn và cực dẻo, có thể chứa một vài chất hữu cơ. Một lượng nhỏ có thể được thêm vào các xương sứ để tăng độ dẻo.Đất sét lửa: Một loại đất sét có tỷ lệ các chất trợ dung thấp hơn một chút so với cao lanh, nhưng thường khá dẻo. Đây là dạng đất sét chịu nhiệt cao, có thể kết hợp với các loại đất sét khác để tăng nhiệt độ nung và có thể được sử dụng như một thành phần để tạo ra các loại xương sành.Đất sét sành: Phù hợp để tạo đồ sành. Có nhiều đặc điểm trung gian giữa đất sét chịu lửa và đất sét viên, có hạt mịn hơn, giống như đất sét viên nhưng có khả năng chịu nhiệt cao hơn như đất sét chịu lửa.Đất sét đỏ và sét đá phiến thông thường có các tạp chất thực vật và oxide sắt (III), làm cho chúng hữu dụng trong sản xuất gạch, nhưng thường không đạt yêu cầu đối với đồ gốm, ngoại trừ trong các điều kiện đặc biệt của một khoáng sàng cụ thể.[15]Bentonit: Một loại đất sét cực kỳ dẻo, có thể thêm với số lượng nhỏ vào đất sét dưới chuẩn để làm tăng độ dẻo.

Phương pháp tạo hình

Một thợ gốm tạo hình một vật phẩm gốm trên bàn xoay thợ gốm chạy bằng điệnĐồ gốm hoàn toàn có thể được định hình bằng một loạt những chiêu thức gồm có :

Tạo hình bằng tay. Đây là phương pháp tạo hình sớm nhất. Đồ gốm có thể được tạo hình bằng tay từ các cuộn đất sét, kết hợp với các tấm đất sét phẳng, hoặc nặn các cục đất sét rắn hoặc một vài kết hợp của các phương pháp thức này. Các bộ phận của xương gốm được tạo hình bằng tay thường được ghép nối với nhau với sự trợ giúp của nước áo, một thể huyền phù lỏng của đất sét và nước. Một xương gốm đất sét có thể được trang trí trước hoặc sau khi nung. Trước một vài quy trình tạo hình, đất sét phải được chuẩn bị, chẳng hạn như các bộ đồ ăn, mặc dù một vài nghệ nhân gốm thấy việc tạo hình bằng tay là có lợi hơn để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật có một không hai.

Bàn xoay đá cổ xưa của thợ gốm ở Erfurt, Đức .

Bàn xoay gốm. Trong một quá trình gọi là vuốt hay trau hoặc nắn hình (vặn hoặc xoay),[16]) một cục đất sét được đặt ở trung tâm của một bàn có thể xoay được, được gọi là đầu bàn xoay, được người thợ gốm quay bằng gậy, sức chân hoặc bằng động cơ điện có thể thay đổi tốc độ. Trong quá trình trau, bàn xoay quay trong khi cục đất sét mềm được ép, bóp và kéo nhẹ lên trên và hướng ra ngoài thành một hình rỗng. Bước đầu tiên của việc ép cục đất sét xị xuống và vào trong thành khối đối xứng xoay hoàn hảo được gọi là định tâm khối đất sét, một kỹ năng quan trọng nhất cần làm chủ trước các bước tiếp theo: mở (tạo một lỗ rỗng ở giữa khối đất sét), tạo đáy (làm đáy phẳng hoặc thuôn tròn bên trong bình), vuốt hoặc trau (kéo lên và tạo hình các vách đến độ dày đồng đều), và xén tỉa hoặc xoay (loại bỏ đất sét dư thừa để tinh chỉnh hình dạng hoặc để tạo ra một chân gốm).Kỹ năng và kinh nghiệm đáng kể được yêu cầu để tạo hình ra các bình chậu đạt tiêu chuẩn chấp nhận được, và trong khi các sản phẩm có thể có giá trị nghệ thuật cao thì khả năng tái tạo của phương pháp này lại kém.[13] Do những hạn chế vốn có của nó, vuốt chỉ có thể được sử dụng để tạo ra các đồ gốm có tính đối xứng xuyên tâm trên một trục thẳng đứng. Những vật phẩm sau đó có thể được thay đổi bằng phương pháp nén xuống, làm phình ra, chạm khắc, xoi rãnh và rạch. Ngoài đôi bàn tay của thợ gốm, các kỹ thuật này có thể sử dụng các công cụ, bao gồm các cánh gạt, cữ chặn, tấm tạo gờ và những dụng cụ chuyên sử dụng để cắt hoặc khoét lỗ như dao, dụng cụ xoi rãnh, công cụ hình kim và dây. Các vật phẩm vuốt có thể được sửa đổi thêm bằng phương pháp đính kèm tay cầm, nắp, chân và vòi.Ép hạt: Như tên gọi cho thấy, đây là hoạt động tạo hình gốm bằng phương pháp ép đất sét trong điều kiện bán khô và tạo hạt trong khuôn. Đất sét được ép vào khuôn bởi một khuôn xốp qua đó nước được bơm ở áp suất cao. Đất sét hạt được chuẩn bị bằng phương pháp sấy phun để tạo ra một vật liệu mịn và chảy tự do có độ ẩm từ khoảng 5 đến 6 phần trăm. Ép hạt, còn được gọi là ép bụi, được sử dụng rộng rãi trong sản xuất gạch men và các đĩa gốm.Đúc phun: Đây là một quá trình tạo hình được điều chỉnh cho ngành công nghiệp bộ đồ ăn từ phương pháp được thiết lập từ lâu để tạo hình nhựa nhiệt dẻo và một vài thành phần kim loại.[17] Nó được gọi là đúc phun sứ, hoặc PIM.[18] Được sản xuất hàng loạt các sản phẩm có hình dạng phức tạp, một ưu điểm đáng kể của kỹ thuật này là cho phép sản xuất một chiếc cốc, bao gồm cả tay cầm, trong một quy trình duy nhất, và do đó loại bỏ hoạt động cố định tay cầm và tạo ra mối liên kết mạnh mẽ hơn giữa cốc và tay cầm.[19] Liệu đầu vào cho khuôn là hỗn hợp của khoảng 50 đến 60 phần trăm vật liệu xương gốm chưa nung ở dạng bột, cùng với 40 đến 50 phần trăm phụ gia hữu cơ bao gồm chất kết dính, chất bôi trơn và chất hóa dẻo.[18] Kỹ thuật này không được sử dụng rộng rãi như các phương pháp tạo hình khác.[20]Tiện ép ngang và tiện ép dọc: Những thao tác này được thực hiện trên bàn xoay gốm và cho phép giảm thời gian để làm cho đồ gốm đạt được hình dáng tiêu chuẩn. Tiện ép ngang là hoạt động đưa một công cụ định hình tiếp xúc với đất sét dẻo của một vật phẩm đang được xây làm, bản thân vật phẩm này được đặt trên một khuôn thạch cao quay trên bánh xe. Công cụ tiện ép ngang tạo hình một mặt trong khi khuôn tạo hình mặt kia. Tiện ép ngang chỉ được sử dụng trong sản xuất các sản phẩm phẳng, chẳng hạn như các đĩa; nhưng một hoạt động tương tự là tiện ép dọc được sử dụng trong sản xuất các sản phẩm rỗng như cốc. Tiện ép ngang và tiện ép dọc đã được sử dụng trong sản xuất gốm từ ít nhất là vào thế kỷ 18. Trong sản xuất nhà máy quy mô lớn, tiện ép ngang và tiện ép dọc thường được tự động hóa, cho phép các hoạt động được thực hiện bởi lao động bán lành nghề.

Hai khuôn cho đồ đất sét, với những phôi đúc tân tiến, từ Athens cổ đại, thế kỷ 5 TCN .

Máy đầu lăn: Máy này sử dụng để tạo hình các sản phẩm trên khuôn quay, như trong tiện ép ngang và tiện ép dọc, nhưng với một công cụ tạo hình xoay thay thế cho biên dạng cố định. Công cụ tạo hình quay là một hình nón nông có cùng đường kính với vật phẩm được định hình và được tạo hình theo dạng mong muốn của mặt sau của vật phẩm đang được làm. Các vật phẩm có thể được tạo hình theo phương pháp này, sử dụng lao động tương đối không có kỹ năng, trong một thao tác với tốc độ khoảng mười hai vật phẩm mỗi phút, mặc dù điều này thay đổi theo kích thước của các sản phẩm được sản xuất. Được phát triển ở Anh ngay sau Thế chiến II bởi công ty Service Engineers, máy đầu lăn nhanh chóng được các nhà sản xuất trên khắp thế giới chấp nhận; chúng vẫn là phương pháp chủ yếu trong sản xuất đồ gốm phẳng.[21]Đúc áp lực: Vật liệu polyme được phát triển đặc biệt cho phép khuôn chịu áp lực bên ngoài lên tới 4,0 MPa – cao hơn nhiều so với đúc nước áo trong khuôn thạch cao, trong đó các lực mao dẫn tương ứng với áp suất khoảng 0,1-0,2 MPa. Áp suất cao dẫn đến tốc độ đúc nhanh hơn nhiều và do đó, chu kỳ sản xuất nhanh hơn. Hơn nữa, việc áp dụng không khí áp suất cao qua các khuôn polyme khi tháo phôi có nghĩa là một chu trình đúc mới có thể được bắt đầu ngay lập tức trong cùng một khuôn, không giống như các khuôn thạch cao đòi hỏi thời gian sấy dài. Các vật liệu polymer có độ bền cao hơn nhiều so với thạch cao và do đó có thể làm ra các sản phẩm được tạo hình với dung sai kích thước tốt hơn và tuổi thọ khuôn dài hơn nhiều. Đúc áp lực được phát triển vào những năm 1970 để sản xuất thiết bị vệ sinh, mặc dù gần đây nó đã được áp dụng cho sản xuất bộ đồ ăn bằng gốm sứ.[22][23][24][25]Ép búa thủy động (ép pít-tông): Cách này được sử dụng để tạo hình đồ bằng phương pháp ép một xương đất sét đã chuẩn bị thành hình dạng theo yêu cầu giữa hai tấm khuôn đúc xốp. Sau khi ép, khí nén được thổi qua các tấm khuôn đúc xốp để giải phóng các đồ gốm đã được tạo hình.Đúc nước áo: Cách này phù hợp để làm các đồ vật với hình dạng không thể được tạo ra bằng các phương pháp khác. Nước áo lỏng, được làm bằng phương pháp pha trộn đất sét với nước, được rót vào khuôn thạch cao có độ hút nước cao. Nước từ nước áo bị hấp thụ vào khuôn và để lại một lớp đất sét che phủ các bề mặt bên trong của khuôn, có hình dạng giống như hình dạng bên trong của khuôn. Phần nước áo thừa được đổ ra khỏi khuôn, sau đó khuôn được tách ra để lấy vật đúc ra. Đúc nước áo được sử dụng rộng rãi trong sản xuất thiết bị vệ sinh và cũng được sử dụng để sản xuất các đồ vật có hình dạng phức tạp khác như ấm trà và các bức tượng nhỏ.In 3D: Đây là tiến bộ mới nhất trong việc định hình các vật thể bằng gốm. Có hai phương pháp. Phương pháp thứ nhất liên quan đến sự lắng đọng thành lớp của đất sét mềm, tương tự như in FDM. Phương pháp thứ hai là các kỹ thuật liên kết bột trong đó bột đất sét khô được hợp nhất với nhau theo từng lớp với một chất lỏng.

Trang trí và tráng men

Bình đất sét đỏ Ý được phủ một lớp men màu xanh nhạt lốm đốm .Đồ gốm hoàn toàn có thể được trang trí theo nhiều phương pháp khác nhau. Một số trang trí hoàn toàn có thể được thực thi trước hoặc sau khi nung .

Vẽ đã được sử dụng từ thời tiền sử, và có thể rất phức tạp. Vẽ trên gốm thường được áp dụng cho đồ gốm đã được nung một lần, và sau đó có thể được phủ một lớp men lên trên. Nhiều sắc tố thay đổi màu sắc khi nung, và họa sĩ phải biết điều này.Tráng men: Có lẽ là hình thức trang trí thông dụng nhất, cũng có tác dụng bảo vệ gốm bằng phương pháp làm cho nó cứng hơn và giữ chất lỏng không thấm vào gốm. Men có thể là trong suốt, đặc biệt là trên các họa tiết, hoặc có màu và mờ. Có nhiều chi tiết hơn trong phần dưới đây.Chạm trổ: Các bình gốm có thể được trang trí bằng phương pháp chạm trổ nông trên xương đất sét, thường là bằng dao hoặc dụng cụ tương tự được sử dụng trên bàn xoay. Điều này là thông dụng trong đồ sứ Trung Quốc thời kỳ cổ điển.Miết bóng: Bề mặt của đồ gốm có thể được miết bóng hay chà bóng trước khi nung bằng phương pháp cọ xát với một dụng cụ phù hợp bằng gỗ, thép hoặc đá để tạo ra một phần hoàn thiện được đánh bóng còn tồn tại sau khi nung. Có thể tạo ra các sản phẩm có độ bóng cao khi sử dụng đất sét mịn hoặc khi đánh bóng được thực hiện trên các sản phẩm đã được sấy khô một phần và chứa ít nước, mặc dù các sản phẩm trong điều kiện này rất dễ vỡ và nguy cơ vỡ rất cao.Terra Sigillata là một hình thức gốm trang trí cổ xưa được phát triển đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại.Các phụ gia có thể được nhào nặn vào xương đất sét trước khi tạo hình, để tạo ra hiệu ứng mong muốn trong các đồ sử dụng được nung. Các phụ gia thô như cát và đất sét nung nghiền mịn đôi khi được sử dụng để tạo cho sản phẩm cuối cùng một vân cần thiết. Đôi khi đất sét và đất sét nung nghiền mịn tương phản về màu được sử dụng để tạo ra các mẫu hình trong các sản phẩm hoàn thiện. Các thuốc nhuộm màu, thường là oxide và cacbonat kim loại, được thêm vào đơn lẻ hoặc kết hợp để đạt được màu sắc mong muốn. Các hạt dễ cháy có thể được trộn với xương gốm hoặc ép vào bề mặt để tạo ra vân trên bề mặt.In thạch bản, còn được gọi là in lito, mặc dù các tên gọi thay thế như in chuyển (in đồ lại) hoặc “dán decal” cũng là thông dụng. Chúng được sử dụng để áp các thiết kế vào các vật phẩm. Các decal bao gồm ba lớp: lớp màu sắc hoặc hình ảnh là lớp bao gồm thiết kế trang trí; lớp che phủ là lớp bảo vệ trong suốt, có thể hợp thành thủy tinh nóng chảy thấp; và lớp giấy lưng mà thiết kế được in trên đó bằng phương pháp in lưới hoặc in thạch bản. Có nhiều phương pháp chuyển thiết kế khác nhau trong khi gỡ bỏ lớp giấy lưng, trong đó một vài phương pháp phù hợp với ứng dụng máy.Tạo đai là sự ghép bằng tay hoặc bằng máy một dải màu vào cạnh của một tấm hoặc một cốc. Còn được gọi là “lót”, thao tác này thường được thực hiện trên bàn xoay thợ gốm.Đồ gốm vân mã não được đặt tên theo sự tương đồng với khoáng vật thạch anh mã não có các dải hoặc các lớp màu (vân màu) được pha trộn với nhau. Đồ gốm vân mã não được tạo ra bằng phương pháp trộn các mảng màu khác nhau lại với nhau nhưng không trộn lẫn chúng đến mức chúng mất đi bản sắc riêng. Các đồ gốm này có bề ngoài giống như có gân hoặc lốm đốm. Thuật ngữ “đồ gốm vân mã não” được sử dụng để mô tả các sản phẩm như vậy ở Vương quốc Anh; ở Nhật Bản thuật ngữ ” neriage ” được sử dụng và ở Trung Quốc, nơi những thứ như vậy đã được tạo ra từ ít nhất là thời nhà Đường, chúng được gọi là đồ gốm đại lý thạch (大理石陶器, đại lý thạch đào khí, tức đồ gốm cẩm thạch). Cần hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn các loại đất sét được sử dụng để làm đồ gốm vân mã não vì các loại đất sét được sử dụng phải có các đặc điểm chuyển động nhiệt phù hợp.

Một cái hũ Armenia cổ đại .

Bao áo: Đó là nước áo được sử dụng để che phủ bề mặt đồ gốm, thường là trước khi nung. Mục đích của nó thường mang tính trang trí mặc dù nó cũng có thể được sử dụng để che lấp các đặc trưng không mong muốn của lớp đất sét mà nó che phủ. Nước áo có thể che bằng phương pháp sơn hay nhúng vật vào trong nó để tạo ra một lớp che phủ đồng nhất và nhẵn mịn. Bao áo được các thợ gốm sử dụng từ thời tiền sử tới nay và đôi khi được kết hợp với kỹ thuật trang trí xước mặt (sgraffito), trong đó một lớp bao áo được cào xước để làm lộ ra màu của lớp đất sét nằm dưới. Với sự cẩn thận và tỉ mỉ có thể quét lớp bao áo thứ hai với màu khác biệt lên trên lớp bao áo thứ nhất và rạch để làm lộ ra màu của lớp bao áo nằm dưới. Các bao áo sử dụng theo phương pháp này thường chứa một lượng đáng kể silica, đôi khi gần bằng thành phần của men gốm.Vẽ vàng: Trang trí bằng vẽ vàng được sử dụng đối với một vài đồ gốm chất lượng cao. Có một vài phương pháp vẽ vàng được áp dụng, bao gồm:Vàng ròng (Best gold, Thuần kim) – huyền phù của bột vàng trong tinh dầu trộn với chất trợ dung và muối thủy ngân tăng cường. Huyền phù này có thể gắn vào đồ gốm bằng các kỹ thuật quét sơn. Sau khi lấy ra khỏi lò nung thì trang trí xỉn màu và cần được miết bóng để làm sáng màu.Vàng acid (Acid gold, Toan kim) – Một hình thức trang trí vàng được phát triển đầu thập niên 1860 tại nhà máy của Mintons Ltd ở Stoke-on-Trent, Staffordshire, Anh quốc. Bề mặt tráng men được khắc bằng acid flohydric loãng trước khi đắp vàng. Quy trình này đòi hỏi kỹ năng cao và chỉ được sử dụng để trang trí những đồ gốm phẩm cấp cao nhất.Vàng sáng màu (Bright gold, Lượng kim) – Bao gồm một dung dịch của vàng sulpho-resinat hay vàng thiolat cùng với các sulpho-resinat/thiolat của các kim loại khác (bismuth, crom, vanadi, rhodi v.v.) và một chất trợ dung. Tên gọi này bắt nguồn từ bề ngoài của lớp trang trí ngay sau khi lấy ra khỏi lò nung, do nó không cần phải miết bóng để làm sáng màu.Vàng nhạt màu (Mussel gold, Đạm thái kim) – Một phương pháp cũ trong trang trí vàng. Nó được thực hiện bằng phương pháp cọ xát vàng lá, đường và muối cùng nhau bằng một công cụ của nghề gốm, sau đó đem rửa để loại bỏ các chất tan trong nước.

Men là lớp che phủ thủy tinh trên đồ gốm, mục đích chủ yếu là trang trí và bảo vệ. Một sử dụng quan trọng của men là làm cho các đồ chứa bằng gốm xốp trở thành không thấm đối với nước và các chất lỏng khác. Men có thể đắp vào bằng phương pháp rắc bột men mịn chưa nung lên trên bề mặt đồ gốm hoặc bằng phương pháp phun, nhúng, quét, chải một lớp vữa mỏng bao gồm men chưa nung và nước. Màu của men sau khi nung có thể khác biệt đáng kể so với màu trước khi nung. Để ngăn không cho đồ gốm tráng men dính vào lò khi nung, hoặc là một phần nhỏ của đồ vật đem nung (như chân đế) không được tráng men hoặc là các “cựa” chịu lửa đặc biệt được sử dụng làm giá kê. Chúng sẽ được gỡ ra và loại bỏ sau khi nung.

Một số kỹ thuật tráng men chuyên được sử dụng gồm có : Gò nung đồ gốm tại Kalabougou Mali. Tất cả những loại đồ gốm sớm nhất được nung trong những hố nung tựa như như thế này . Một lò nung tại xưởng gốm ở Bardon Mill, Vương quốc Anh .Nung tạo ra những đổi khác không hề đảo ngược trong xương gốm. Chỉ sau khi nung thì vật phẩm hay vật tư mới được gọi là đồ gốm. Trong gốm thấp lửa thì những đổi khác gồm có thiêu kết, là sự hợp nhất cùng nhau của những hạt thô hơn trong xương gốm tại những điểm tiếp xúc của chúng với nhau. Trong trường hợp của sứ, trong đó những vật tư khác nhau và nhiệt độ nung cao được sử dụng, những đặc thù vật lý, hóa học và khoáng vật học của những thành phần hợp thành trong xương gốm bị biến hóa mạnh. Trong mọi trường hợp thì nguyên do đem nung là để làm cứng vĩnh cửu những vật phẩm tạo ra, và chính sách nung phải thích hợp với những vật tư được sử dụng để làm ra chúng. Như một hướng dẫn thô sơ thì những đồ đất sét tân tiến thường thì được nung ở khoảng chừng nhiệt độ từ 1.000 °C ( 1.830 °F ) đến 1.200 °C ( 2.190 °F ) ; đồ sành từ khoảng chừng 1.100 °C ( 2.010 °F ) đến 1.300 °C ( 2.370 °F ) ; và đồ sứ từ khoảng chừng 1.200 °C ( 2.190 °F ) đến 1.400 °C ( 2.550 °F ). Trong quá khứ, đạt được những nhiệt độ cao là một thử thách lâu dài hơn, và đồ đất sét hoàn toàn có thể chỉ được nung ở nhiệt độ thấp tới 600 °C ( 1.112 °F ), đạt được trong những hố nung nguyên thủy .

Nung đồ gốm có thể được thực hiện theo một vài phương pháp, với lò nung là phương pháp nung thông thường nhất. Cả nhiệt độ nung tối đa lẫn thời gian nung đều ảnh hưởng tới các đặc trưng cuối cùng của sản phẩm gốm. Vì thế, nhiệt độ tối đa bên trong lò nung thường được duy trì là một hằng số trong một khoảng thời gian để làm cho đồ đem nung ngấu nhằm tạo ra độ chín theo yêu cầu trong xương gốm.

Khí bên trong lò nung trong quy trình nung cũng hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động tới vẻ bên ngoài của đồ gốm thành phẩm. Môi trường oxy hóa, sinh ra từ sự cung ứng dư thừa không khí vào lò, hoàn toàn có thể gây ra sự oxy hóa đất sét và men. Môi trường khử, sinh ra từ sự hạn chế không khí vào lò hoặc do đốt than thay vì đốt củi, hoàn toàn có thể tước đoạt oxy từ bề mặt đất sét và men. Điều này hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động tới vẻ bên ngoài của đồ gốm đem nung và 1 số ít loại men chứa những khoáng vật giàu sắt trở thành màu nâu trong thiên nhiên và môi trường oxy hóa nhưng lại có màu xanh lục trong môi trường tự nhiên khử. Môi trường khí bên trong lò nung hoàn toàn có thể kiểm soát và điều chỉnh để tạo ra những hiệu ứng phức tạp trong lớp men .

Các lò nung có thể được cấp nhiệt bằng đốt củi, than, khí thiên nhiên, khí hóa lỏng hay bằng điện. Khi sử dụng làm nhiên liệu, than và củi có thể sinh ra khói, mồ hóng, tro trong lò nung, gây ảnh hưởng tới bề ngoài của các đồ nung không được che chắn, bảo vệ. Vì nguyên nhân này, các đồ nung trong là đốt củi hay lò đốt than thường được đặt bên trong các sạp nung gốm hoặc các hộp gốm để bảo vệ chúng. Các lò nung hiện đại đốt khí ga hay lò điện là sạch sẽ hơn và dễ kiểm soát hơn so với các lò củi hay lò than kiểu cũ và thường rút ngắn được thời gian nung. Trong mô phỏng phương Tây của kỹ thuật nung gốm Raku truyền thống của Nhật Bản thì các đồ gốm được đưa ra khỏi lò nung khi còn nóng đỏ và được bao phủ trong tro, giấy hay dăm gỗ để tạo ra bề ngoài cacbon hóa khác biệt. Kỹ thuật này cũng được sử dụng tại Malaysia trong việc tạo ra labu sayong (bình đựng nước hình bầu hồ lô) truyền thống.[33][34]

Tại Mali, những gò nung gốm được sử dụng thay cho những lò xây bằng gạch hay đá. Những chiếc bình chưa nung, theo phong tục tiên phong sẽ được những người phụ nữ và thanh nữ trong làng mang đến nơi sẽ dựng gò nung. Nền của gò nung được làm bằng phương pháp đặt những thanh củi trên mặt đất, sau đó :

[ … ] những chiếc bình được đặt trên và giữa những thanh củi, sau đó cỏ được chất thành đống cao để làm thành gò nung. Mặc dù gò nung xếp nhiều bình của nhiều phụ nữ, những người có quan hệ họ hàng trải qua dòng họ đằng chồng, nhưng mỗi phụ nữ phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về những cái bình của chính mình hoặc của chính mái ấm gia đình mình trong gò .Khi một gò nung hoàn thành xong và mặt đất xung quanh đã được quét sạch những vật tư dễ cháy còn sót lại thì một người thợ gốm cao kinh nghiệm tay nghề thắp lửa. Một nắm cỏ được châm lửa và người phụ nữ chạy vòng quanh gò nung để chạm ngọn đuốc đang cháy vào đám cỏ khô. Một số gò nung vẫn được kiến thiết xây dựng khi những gò nung khác đã được đốt cháy. [ 35 ]

Các đồ gốm sớm nhất đã biết là bức tượng nhỏ thuộc văn hóa truyền thống Gravette có niên đại tới 29.000 – 25.000 TCN .Phần lớn thời hạn trong lịch sử vẻ vang nghề gốm là thuộc thời kỳ tiền sử, thuộc về những văn hóa truyền thống trước khi có chữ viết trong quá khứ. Vì thế, phần đông lịch sử dân tộc này chỉ hoàn toàn có thể được tìm thấy trong những đồ tạo tác của khảo cổ học. Do đồ gốm là khá bền nên những đồ gốm và mảnh gốm sống sót qua nhiều thiên niên kỷ tại những di chỉ khảo cổ, và thường là loại đồ tạo tác thông dụng nhất và quan trọng nhất còn sót lại. Nhiều văn hóa truyền thống tiền sử được đặt tên theo đồ gốm, đó cũng là phương pháp thuận tiện nhất để nhận dạng những di chỉ chứa chúng và những nhà khảo cổ học đã thiết kế xây dựng và tăng trưởng những đặc thù nhận dạng những mô hình độc lạ từ thành phần hóa học của những mảnh gốm nhỏ .Để đồ gốm và nghề gốm trở thành một bộ phận của một văn hóa truyền thống nào đó thì 1 số ít điều kiện kèm theo nói chung phải đạt được. Chúng gồm có :

Trước hết, phải sẵn có nguồn đất sét có thể sử dụng được. Các di chỉ khảo cổ nơi các đồ gốm sớm nhất được tìm thấy đều nằm gần các mỏ đất sét sẵn có, dễ khai thác để có thể tạo hình và nung đúng phương pháp . Trung Quốc có các mỏ đất sét lớn và đa dạng về chủng loại, tạo ra ưu thế cho họ trong phát triển sớm của đồ gốm tinh xảo. Nhiều quốc gia khác cũng có các mỏ đất sét lớn và đa dạng về chủng loại.Thứ hai, phải có phương pháp thức nung vật liệu gốm đến nhiệt độ đủ cao để chuyển đất sét thô thành đồ gốm. Các phương pháp tạo ra ngọn lửa đủ nóng và đủ ổn định để nung gốm đã không phát triển cho tới tận cuối quá trình phát triển của các văn hóa.Thứ ba, thợ gốm phải có đủ thời gian để chuẩn bị, tạo hình và nung đất sét thành đồ gốm. Ngay cả khi đã kiểm soát được lửa, con người dường như vẫn chưa phát triển nghề gốm cho đến khi đạt được cuộc sống định canh. Người ta đã từng đưa ra giả thuyết rằng nghề gốm chỉ được phát triển sau khi con người biết làm nông nghiệp, dẫn đến các khu định cư lâu dài. Tuy nhiên, đồ gốm cổ nhất được biết đến là từ Trung Quốc và có niên đại tới năm 20.000 TCN, vào thời kỳ đỉnh cao của kỷ băng hà gần đây, rất lâu trước khi nông nghiệp bắt đầu.Thứ tư, phải có đủ nhu cầu về đồ gốm để biện minh cho sự cần thiết của các nguồn lực phục vụ sản xuất đồ gốm.[36]

Đồ gốm thời kỳ đầu

Phương pháp tạo hình: Tạo hình bằng tay là phương pháp sớm nhất được sử dụng để tạo hình các loại bình, lọ. Nó bao gồm các kết hợp của nặn và đắp cuộn.Nung: Phương pháp sớm nhất để nung đồ gốm là sử dụng các đống lửa (đồ gốm nung hố). Thời gian nung có thể ngắn nhưng nhiệt độ cao nhất đạt được trong đống lửa này phải khá cao, có lẽ khoảng 900 °C (1.650 °F) và đạt được rất nhanh.[37]Đất sét: Những người thợ gốm thời kỳ đầu sử dụng bất kỳ loại đất sét nào sẵn có trong khu vực lân cận của họ. Tuy nhiên, loại đất sét đỏ thông thường với chất lượng thấp nhất là đủ để nung nhiệt độ thấp được sử dụng cho những chiếc bình, lọ sớm nhất. Đất sét nhào trộn với cát, sạn, vỏ sò/trai/hến nghiền hoặc gốm nghiền thường được sử dụng để làm đồ gốm nung trong đống lửa, vì chúng có kết cấu xương thông thoáng cho phép nước và các thành phần dễ bay hơi của đất sét thoát ra tự do. Các hạt thô hơn trong đất sét cũng có tác dụng hạn chế sự co ngót trong quá trình sấy/phơi khô, và do đó giảm rủi ro rạn nứt.Hình thức: Về cơ bản, đồ gốm nung trong đống lửa ban đầu được làm với đáy thuôn tròn để tránh các góc nhọn dễ bị rạn nứt.Tráng men: Các bình, chậu sớm nhất không được tráng men.Bàn xoay gốm được phát minh tại Mesopotamia vào khoảng 6000-4000 TCN (thời kỳ Ubaid) và phương pháp mạng sản xuất đồ gốm.Khuôn: Được người Etrusca sử dụng ở mức độ hạn chế vào đầu thế kỷ 5 và 6 TCN,[38] và được người La Mã sử dụng rộng rãi hơn.[39]Đúc nước áo: Một phương pháp phổ thông để tạo hình các đồ vật có hình dạng bất thường. Nó được thực hành đầu tiên ở mức độ hạn chế tại Trung Quốc, có lẽ từ thời Đường.[40]Chuyển sang lò nung: Các lò được xây dựng có chủ định đầu tiên là lò hố hoặc lò rãnh – là những cái hố được đào vào lòng đất và phủ đầy nhiên liệu. Các hố trong lòng đất giúp phương pháp nhiệt và giúp kiểm soát tốt hơn việc nung.[41]Lò nung: Các phương pháp nung hố là đủ để tạo ra đồ đất nung đơn giản, nhưng các loại đồ gốm khác thì cần các loại lò nung phức tạp hơn (xem lò nung dưới đây).

Lịch sử theo khu vực

Khởi đầu của nghề gốm

Đồ gốm động Tiên Nhân ( 18,000 BC )0pxCác mảnh gốm trong động Tiên Nhân, có niên đại cacbon phóng xạ tới khoảng 18.000 TCN, Trung Quốc[42][43]

Đồ gốm có thể đã được phát hiện ra một phương pháp độc lập tại nhiều nơi khác nhau, có lẽ là do ngẫu nhiên tạo ra nó ở đáy các đống lửa trên nền đất sét. Tất cả các dạng bình, chậu sớm nhất đã biết tới nay đều là gốm nung trong hố và được làm bằng phương pháp đắp các cuộn đất sét, một công nghệ khá đơn giản để học. Các đồ vật gốm sớm nhất đã biết là các bức tượng nhỏ kiểu Gravette (công nghiệp/văn hóa Gravette) như những gì đã phát hiện tại Dolní Věstonice (Cộng hòa Séc ngày nay). Vệ nữ Dolní Věstonice là tượng Vệ Nữ (Venus), một bức tượng tạo hình người phụ nữ khỏa thân, có niên đại tới 29000–25000 TCN.

Các mảnh gốm được tìm thấy tại Trung Quốc và Nhật Bản trong quá trình từ 12.000 và có lẽ rằng truyền kiếp tới 18.000 năm trước. [ 44 ] Tại thời gian năm 2012, đồ gốm sớm nhất được tìm thấy tại bất kể đâu trên quốc tế, [ 45 ] có niên đại tới 19.000 – 20.000 năm trước ngày này, được tìm thấy tại động Tiên Nhân ( hương Đại Nguyên, huyện Vạn Niên, địa cấp thị Thượng Nhiêu, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc ). [ 46 ] [ 47 ]Các loại đồ gốm thời kỳ đầu khác còn gồm có cả những cổ vật khai thác được tại hang Ngọc Thiềm ( trại Bạch Thạch, trấn Thọ Nhạn, huyện Đạo, địa cấp thị Vĩnh Châu, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ), có niên đại đến năm 16000 TCN, [ 44 ] và những gì tìm thấy trong lưu vực sông Amur ở Viễn Đông Nga có niên đại tới năm 14000 TCN. [ 48 ]Di chỉ Odai Yamamoto I thuộc về thời kỳ Jōmon hiện tại có đồ gốm cổ nhất đã biết tại Nhật Bản. Cuộc khai thác năm 1998 đã phát hiện ra những mảnh đồ đất sét có niên đại tới 14500 TCN. [ 49 ] Thuật ngữ ” Jōmon ” ( 縄文, thằng văn ) có nghĩa là ” vằn dây ” hay ” vân dây ” trong tiếng Nhật. Nó sử dụng để nói tới những vằn trên bình, lọ hay tượng do việc sử dụng que và dây thừng trong quy trình sản xuất ra những vật phẩm này. Một nghiên cứu và điều tra gần đây đã làm sáng tỏ đồ gốm Jōmon đã được những người tạo ra nó sử dụng như thế nào và vào việc gì. [ 50 ]Hình như nghề gốm đã tăng trưởng độc lập tại châu Phi Hạ-Sahara trong thiên niên kỷ 10 TCN, với những vật tìm thấy có niên đại tối thiểu là 9400 TCN từ miền trung Mali, và tại Nam Mỹ vào thời gian 9000 – 7000 TCN. [ 51 ] Các vật tìm thấy tại Mali có niên đại giống như của những vật tựa như được tìm thấy tại Đông Á – vùng tam giác giữa Siberia, Trung Quốc và Nhật Bản – và trong cả hai khu vực thì chúng đều gắn liền với những biến hóa khí hậu tương tự như ( vào cuối thời kỳ băng hà thì đồng cỏ tăng trưởng và lan rộng ra, được cho phép những người săn bắt-hái lượm lan rộng ra thiên nhiên và môi trường sống của mình ), được cung ứng một phương pháp độc lập bằng những tăng trưởng tựa như trong cả hai văn hóa truyền thống : tạo ra đồ gốm để đựng hạt những loại lương thực hoang dại ( như kê trân châu ) và tạo ra những mũi tên nhỏ để săn chim thú nổi bật của những vùng đồng cỏ. Ngoài ra, việc tạo ra đồ gốm trong trường hợp của văn minh Jōmon sơ kì hoàn toàn có thể là do sự khai thác sâu xa những sinh vật nước ngọt và nước mặn của những người lục lọi tìm kiếm thức ăn vào cuối thời kỳ băng hà, là những người đã tăng trưởng những đồ đựng bằng gốm để chứa những mẻ đánh bắt cá của họ. [ 50 ] Tại Nhật Bản, thời kỳ Jōmon có lịch sử dân tộc truyền kiếp về tăng trưởng đồ gốm Jōmon với đặc trưng là những vết hằn của dây thừng trên mặt đồ gốm, được tạo ra bằng phương pháp quấn / ép dây thừng vào khối đất sét trước khi nung. Đồ sành tráng men được tạo ra có lẽ rằng từ thế kỷ 15 tại Trung Quốc. Một dạng đồ sứ Nước Trung Hoa đã trở thành loại sản phẩm xuất khẩu đáng kể của Trung Quốc kể từ thời Đường ( 618 – 906 ) trở đi. Các thợ gốm Cao Ly / Triều Tiên đã làm đồ sứ có lẽ rằng từ thế kỷ 14. [ 52 ] Người Triều Tiên đã đem nghệ thuật và thẩm mỹ làm đồ sứ sang Nhật Bản trong thế kỷ 17. [ 53 ]Trái với châu u, giới thượng lưu Trung Quốc sử dụng đồ gốm rộng khắp trên bàn ăn, vì những mục tiêu tôn giáo hay sử dụng để trang trí và những tiêu chuẩn so với đồ gốm tinh xảo là rất cao. Từ thời Tống ( 960 – 1279 ) trở đi trong vài thế kỷ thì giới thượng lưu ưu thích những vật phẩm có màu trơn và tạo hình tinh xảo ; trong thời kỳ này đồ sứ thật sự ( theo định nghĩa phương Tây ) đã được hoàn thành xong trong sứ Định ( 定瓷, Định từ ) sản xuất tại lò gốm Định ( 定窯, Định diêu ), mặc dầu nó chỉ là một trong năm lò gốm khét tiếng ( 五大名窯, Ngũ đại danh diêu ; gồm có lò gốm Nhữ tại Nhữ Châu ( nay thuộc Bình Đỉnh Sơn, Hà Nam ), lò gốm Quân tại Vũ Châu ( nay thuộc Hứa Xương, Hà Nam ), lò gốm Quan thời Bắc Tống tại Biện Kinh ( nay là Khai Phong, Hà Nam ) và thời Nam Tống tại Lâm An ( nay là Hàng Châu, Chiết Giang ), lò gốm Định tại Định Châu ( nay là Khúc Dương, Bảo Định, Hà Bắc ) và lò gốm Ca tại Long Tuyền, Xử Châu ( nay là Long Tuyền, Lệ Thủy, Chiết Giang ). ) trong thời Tống. Thể loại đồ gốm sứ cao lửa truyền thống cuội nguồn Nước Trung Hoa gồm có cả những loại đồ sành như gốm Nhữ, sứ xanh Long Tuyền ( gốm men ngọc Long Tuyền ) và gốm Quan. Các loại đồ gốm trang trí như gốm Từ Châu có vị thế thấp hơn, mặc dầu chúng vẫn được gật đầu sử dụng để làm gối .Sự Open của gốm hoa lam có lẽ rằng là loại sản phẩm thời Nguyên-Mông ( 1271 – 1368 ) được những nghệ nhân và thợ thủ công trên khắp đế quốc to lớn này phát tán. Cả thuốc màu coban được sử dụng để tạo màu xanh lam và phong thái vẽ trang trí dựa theo hoa lá cỏ cây, nguyên thủy được vay mượn từ quốc tế Hồi giáo, nơi mà người Mông Cổ cũng đã chinh phục. Cùng lúc đó, đồ sứ Cảnh Đức Trấn, được làm tại những xưởng gốm Hoàng gia, đã giữ vai trò chủ yếu không hề tranh cãi trong sản xuất và nó vẫn được duy trì cho đến nay. Phong phương pháp trang trí tỉ mỉ, công phu, mới lạ này đã được yêu thích tại triều đình, và từ từ người ta thêm nhiều sắc tố khác vào .Bí quyết làm đồ sứ như vậy đã được tìm hiểu và khám phá trong quốc tế Hồi giáo và muộn hơn là ở châu u, khi những đồ mẫu được nhập khẩu từ phương Đông. Nhiều nỗ lực đã được thực thi để mô phỏng nó ở Ý và Pháp. Tuy nhiên, nó đã không được sản xuất bên ngoài quốc tế phương Đông cho tới tận năm 1709 khi được sản xuất ở Đức. [ 54 ] Đồ gốm xếp chồng tại Istalif, Afghanistan, một làng nghề được biết đến nhờ truyền thống lịch sử làm đồ gốm độc lạ .Đồ gốm kiểu vân dây ép chìm thuộc về truyền thống lịch sử gốm ‘ đồ đá giữa ‘ đã được những người săn bắt-hái lượm Vindhya tăng trưởng tại miền trung Ấn Độ trong thời đại đồ đá giữa. [ 55 ] [ 56 ] Kiểu đồ gốm này cũng được tìm thấy trong những khu vực cận kề, nhưng vào khoảng chừng thời hạn muộn hơn là thời kỳ tiền-đồ đá mới. [ 57 ] Kiểu đồ gốm sớm này cũng được tìm thấy tại di chỉ Lahuradewa, lúc bấy giờ là truyền thống lịch sử gốm cổ nhất đã biết tại Nam Á, có niên đại tới 7000 – 6000 TCN. [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] Đồ gốm làm trên bàn xoay mở màn được làm trong thời kỳ Mehrgarh II ( 5500 – 4800 TCN ) và Merhgarh III ( 4800 – 3500 TCN ), được biết đến như thể gốm thời kỳ đồ đá mới và gốm thời kỳ đồng đá. Đồ gốm, gồm có cả những vật phẩm như bình / lọ Ed-Dur, đã bắt nguồn trong những khu vực ven sông Saraswati / sông Ấn và được tìm thấy tại một vài ít di chỉ thuộc văn minh sông Ấn. [ 62 ] [ 63 ]Mặc dù có hồ sơ tiền sử rộng khắp về đồ gốm, gồm có cả những đồ gốm có trang trí, nhưng lại có rất ít đồ gốm ” tinh xảo ” hay xa xỉ được làm ra trong thời kỳ lịch sử dân tộc ghi chép được tại tiểu lục địa này. Ấn Độ giáo không khuyến khích nhà hàng siêu thị bằng đồ gốm và có lẽ rằng điều này là lời giải thích hầu hết cho sự không tăng trưởng của đồ gốm tinh xảo / xa xỉ. Hầu hết những bình gốm truyền thống cuội nguồn của Ấn Độ là những chiếc bình hoặc lọ lớn để đựng, hoặc những chiếc cốc nhỏ hay đèn, thường được coi là vật dụng một lần. trái lại, tại đây có những truyền thống cuội nguồn truyền kiếp về những hình tượng điêu khắc, thường khá lớn, bằng đất sét .

Khu vực Đông Nam Á

Hũ Manunggul cuối thời kỳ đồ đá mới từ Palawan, được sử dụng để chôn cất với nắp đậy trên đỉnh có hình con thuyền chở hai người, tượng trưng cho cuộc hành trình của linh hồn sang thế giới bên kia.Đồ gốm tại Khu vực Đông Nam Á cũng phong phú như những nhóm sắc tộc sinh sống tại khu vực này. Mỗi nhóm sắc tộc có bộ tiêu chuẩn riêng của mình khi đề cập tới thẩm mỹ và nghệ thuật gốm. Các đồ gốm được làm ra vì nhiều nguyên do khác nhau, như để mua và bán, đựng thức ăn và đồ uống, sử dụng trong phòng bếp, ship hàng cho những nghi lễ ton giáo và chôn cất. [ 64 ] [ 65 ] [ 66 ] [ 67 ] Trước khi có ý tưởng đồ gốm tại Tây Á, trong thời kỳ đồ đá mới tiền gốm : một cái vò bằng thạch cao tuyết hoa canxit ở Syria, cuối thiên niên kỷ 8 TCN .Khoảng 8000 TCN trong thời kỳ đồ đá mới tiền gốm và trước khi ý tưởng đồ gốm, dân cư của một vài ít khu định cư bắt đầu đã trở thành những chuyên viên trong chế tác những đồ đựng đẹp và rất tinh xảo từ đá, sử dụng những vật tư như thạch cao tuyết hoa hoặc granit được tạo hình và đánh bóng bằng cát. Các nghệ nhân đã sử dụng những đường vân trong vật tư để tạo ra hiệu ứng thị giác tối đa. Những vật phẩm như vậy đã được tìm thấy rất nhiều ở thượng nguồn sông Euphrates, vùng ngày này là miền đông Syria, đặc biệt quan trọng là tại di chỉ Bouqras. [ 68 ]Lịch sử sớm nhất về sản xuất đồ gốm tại Lưỡi liềm Màu mỡ mở màn thời kỳ đồ đá mới gốm và hoàn toàn có thể chia ra thành 4 thời kỳ nhỏ là : thời kỳ Hassuna ( 7000 – 6500 TCN ), thời kỳ Halaf ( 6500 – 5500 TCN ), thời kỳ Ubaid ( 5500 – 4000 TCN ) và thời kỳ Uruk ( 4000 – 3100 TCN ). Vào khoảng chừng 5000 TCN thì làm đồ gốm đã thông dụng rộng khắp trong khu vực này và lan tỏa sang những khu vực bên cạnh .Làm đồ gốm khởi đầu trong thiên niên kỷ 7 TCN. Các dạng sớm nhất được tìm thấy tại di chỉ Hassuna, được tạo hình bằng tay từ những tấm, với những bình / chậu không trang trí, không tráng men và thấp lửa làm từ đất sét màu nâu ánh đỏ. [ 41 ] Trong thiên niên kỷ sau đó, đồ gốm được trang trí bằng những phong cách thiết kế tinh xảo, nhiều họa tiết và những tạo hình tự nhiên, được chạm khắc và đánh bóng .Sự ý tưởng ra bàn xoay gốm tại Mesopotamia trong thời hạn khoảng chừng 6000 – 4000 TCN ( thời kỳ Ubaid ) đã phương pháp mạng sản xuất đồ gốm. Các phong cách thiết kế lò nung mới hơn hoàn toàn có thể nung gốm từ 1.050 °C ( 1.920 °F ) đến 1.200 °C ( 2.190 °F ) đã được cho phép thực thi những năng lực mới và sự chuẩn bị sẵn sàng đát sét kiểu mới. Sản xuất giờ đây được những nhóm nhỏ thợ gốm triển khai cho những đô thị nhỏ chứ không còn là những thợ thủ công riêng không liên quan gì đến nhau cho từng mái ấm gia đình. Hình dạng và khoanh vùng phạm vi sử dụng gốm và đồ gốm đã lan rộng ra vượt ra ngoài những bình / lọ đơn thuần để tiềm ẩn và đem theo thành những dụng cụ căn phòng nhà bếp, chậu cây và bẫy chuột. [ 69 ] Theo dòng tăng trưởng của khu vực với những tổ chức triển khai và hình thái chính trị mới sinh ra thì đồ gốm cũng trở nên tinh xảo và đổi khác hơn. Một số đồ gốm được làm bằng phương pháp đúc khuôn, được cho phép ngày càng tăng sản lượng để Giao hàng cho nhu yếu của dân số tăng lên. Tráng men được sử dụng phổ cập hơn và đồ gốm cũng được trang trí nhiều hơn. [ 70 ]Trong thời kỳ đồng đá ở Mesopotamia, đồ gốm Halaf đạt được mức cao về năng lượng và sự phức tạp kỹ thuật chưa từng thấy cho đến khi có sự tăng trưởng của đồ gốm Hy Lạp với những mẫu sản phẩm gốm Corinthia và Attica . Các dân cư tiên phong của châu u đã tăng trưởng nghề gốm trong văn hóa truyền thống gốm đai thẳng hơi muộn hơn một chút ít so với Cận Đông, vào thời gian 5500 – 4500 TCN. Ở Tây Địa Trung Hải cổ đại, đồ đất sét được tô vẽ công phu đã đạt đến trình độ thẩm mỹ và nghệ thuật rất cao trong quốc tế Hy Lạp ; với một lượng lớn đồ đất sét còn sót lại từ những mộ hầm. Đồ gốm Minos có đặc trưng là họa tiết trang trí phức tạp theo những chủ đề vạn vật thiên nhiên. [ 71 ] Văn hóa Hy Lạp cổ xưa mở màn Open vào khoảng chừng năm 1000 TCN với nhiều chủng loại đồ gốm được làm bằng tay thủ công khá kỹ, gồm có hình người như một loại họa tiết trang trí. Bàn xoay gốm khi đó đã được sử dụng tiếp tục. Mặc dù những người thợ gốm đã biết đến tráng men, nhưng nó không được sử dụng thoáng đãng. Thay cho nên vì thế, nước áo đất sét xốp hơn được sử dụng để trang trí. Một loạt những hình dạng cho những mục tiêu sử dụng khác nhau đã được tăng trưởng sớm và về cơ bản không đổi khác trong lịch sử vẻ vang Hy Lạp. [ 72 ]

Đồ gốm Etrusca tinh xảo chịu nhiều ảnh hưởng của đồ gốm Hy Lạp và thường được các thợ gốm và họa sĩ vẽ gốm Hy Lạp nhập khẩu. Đồ gốm La Mã cổ đại ít sử dụng việc tô vẽ mà sử dụng sự trang trí khuôn đúc, cho phép sản xuất công nghiệp hóa ở quy mô lớn. Phần lớn những thứ mà các tài liệu học thuật tiếng Anh viết là Samian ware (đồ gốm Samos) đỏ của Đế quốc La Mã thời kỳ đầu trên thực tế được sản xuất tại khu vực ngày nay thuộc Đức và Pháp, nơi các doanh nhân lập ra các xưởng gốm lớn.

Đồ gốm phần nhiều không được nhìn thấy trên bàn ăn của giới thượng lưu từ thời kỳ Hy Lạp hóa cho đến thời kỳ Phục Hưng, và phần đông những đồ gốm thời Trung cổ là thô lậu và tiện lợi, do giới thượng lưu sử dụng những loại bát / chén sắt kẽm kim loại. Nhập khẩu từ châu Á làm hồi sinh sự chăm sóc đến đồ gốm tinh xảo, những thứ mà những nhà phân phối châu u sau cuối đã học được phương pháp làm, và từ thế kỷ 18 trở đi thì đồ sứ và những đồ gốm châu u khác của một lượng lớn những đơn vị sản xuất đã trở nên cực kỳ phổ cập .

Thế giới Hồi giáo

Một thợ gốm đang thao tác, 1605 .Đồ gốm Hồi giáo thời kỳ đầu theo những hình thức của những khu vực mà người Hồi giáo chinh phục. Tuy nhiên, sau cuối tại đây đã có sự giao lưu chéo giữa những khu vực. Điều này đáng quan tâm nhất là những ảnh hưởng tác động Nước Trung Hoa tới đồ gốm Hồi giáo. Giao thương giữa Trung Quốc và quốc tế Hồi giáo diễn ra trải qua mạng lưới hệ thống những trạm kinh doanh trên con đường tơ lụa lê dài. Các vương quốc Hồi giáo đã nhập khẩu đồ sành và muộn hơn là đồ sứ từ Trung Quốc. Trung Quốc lại nhập khẩu những khoáng vật xanh coban từ Ba Tư do người Hồi giáo quản lý để trang trí đồ sứ hoa lam của họ để sau đó xuất khẩu sang quốc tế Hồi giáo .Tương tự như vậy, nghệ thuật và thẩm mỹ Hồi giáo đã góp thêm phần vào một mô hình đồ gốm lâu bền hơn được xác lập như là đồ gốm Moor Tây Ban Nha ở Andalucia ( Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo ). Các kiểu đồ gốm Hồi giáo độc lạ cũng được tăng trưởng, gồm có đồ gốm frit ( đồ gốm thủy tinh nghiền ), đồ gốm men láng và những loại men chuyên sử dụng như men thiếc, dẫn đến sự tăng trưởng của maiolica phổ cập. [ 73 ]Một điểm nhấn chính trong sự tăng trưởng gốm ở quốc tế Hồi giáo là việc sử dụng tấm lát ( ngói, gạch ốp lát ) và những tấm lát trang trí . Hầu hết những dẫn chứng đều chỉ ra sự tăng trưởng độc lập của nghề gốm trong những văn hóa truyền thống thổ dân châu Mỹ, với niên đại sớm nhất được biết đến từ Brasil, từ 9.500 đến 5.000 năm trước và 7.000 đến 6.000 năm trước. Xa hơn về phía bắc ở Trung Bộ châu Mỹ, niên đại khởi đầu từ kỷ nguyên Cổ xưa ( 3500 – 2000 TCN ) và vào thời kỳ hình thành ( 2000 TCN – 200 ). Các văn hóa truyền thống này đã không tăng trưởng đồ sành, đồ sứ hoặc đồ tráng men như được tìm thấy ở Cựu Thế giới. Gốm sứ Maya gồm có những chiếc bình được trang trí tinh xảo, thường là những chiếc cốc, với những cảnh sắc tô vẽ tỉ mỉ cùng một vài ít hình và văn bản. Một vài văn hóa truyền thống, khởi đầu từ văn minh Olmec, đã làm ra những tác phẩm điêu khắc bằng đất sét, và những tác phẩm điêu khắc hình người hay con vật cũng là những loại bình được sản xuất ở nhiều nơi, với những chiếc bình chân dung Moche là một trong những loại tinh xảo nhất . Các chứng cứ chỉ ra sự ý tưởng độc lập về đồ gốm ở châu Phi hạ Sahara. Năm 2007, những nhà khảo cổ học Thụy Sĩ đã phát hiện ra những mảnh gốm cổ nhất của châu Phi tại Ounjougou ở miền trung Mali, có niên đại tối thiểu là 9400 TCN. Trong những thời kỳ sau này, mối quan hệ của sự gia nhập nghề làm xoong nồi ở một vài ít vùng của châu Phi hạ Sahara với sự phổ cập của ngữ chi Bantu đã được công nhận từ lâu, mặc dầu những chi tiết cụ thể vẫn còn gây tranh cãi và đang chờ thêm những nghiên cứu và điều tra cũng như chưa đạt được sự đồng thuận. [ 74 ]Nghề gốm Ai Cập cổ đại mở màn sau năm 5000 TCN, từ Levant lan tỏa ra. Có nhiều tiến trình tăng trưởng riêng không liên quan gì đến nhau trong nghề gốm tại đây, với những đồ gốm rất tinh xảo được sản xuất vào thời kỳ Naqada III, khoảng chừng 3200 đến 3000 TCN. Trong thời kỳ đầu của những văn minh Địa Trung Hải tại khu vực Lưỡi liềm Màu mỡ, Ai Cập đã tăng trưởng một loại gốm không đất sét mà sau này người ta gọi là đồ gốm faenza Ai Cập. [ note 1 ] Một loại xương gốm tương tự như vẫn được làm ở Jaipur, Ấn Độ. Trong thời kỳ đế quốc Hồi giáo Umayyad ( 661 – 750 ), Ai Cập là điểm liên kết giữa TT Hồi giáo sơ khai ở Cận Đông với Iberia, dẫn đến phong thái ấn tượng của nghề gốm .

Tuy nhiên, nó vẫn có giá trị khi xem xét đồ gốm như một hồ sơ khảo cổ về sự tương tác tiềm tàng giữa các dân tộc, đặc biệt là ở những khu vực có rất ít hoặc không có lịch sử thành văn. Do châu Phi chủ yếu mang nặng tính truyền khẩu và vì thế thiếu một lượng lớn các nguồn lịch sử thành văn, nên đồ gốm có một vai trò khảo cổ có giá trị. Khi đồ gốm được đặt trong bối cảnh của các mẫu hình ngôn ngữ và di cư, nó trở thành một thể loại đồ tạo tác xã hội thậm chí còn thịnh hành hơn.[74] Theo đề xuất của Olivier P. Gosselain, có thể hiểu được phạm vi tương tác giữa các văn hóa bằng phương pháp xem xét kỹ chuỗi vận hành (chaîne opératoire) của sản xuất gốm sứ.[75]

Các giải pháp được sử dụng để sản xuất đồ gốm ở châu Phi hạ Sahara sơ kỳ được chia thành ba thể loại : những kỹ thuật nhìn thấy bằng mắt ( kỹ thuật trang trí, nung và sau nung ), những kỹ thuật tương quan đến vật tư ( lựa chọn hoặc giải quyết và xử lý đất sét v.v. ), và những kỹ thuật nặn hoặc tạo hình đất sét. [ 75 ] Ba thể loại này hoàn toàn có thể được sử dụng để xem xét mối quan hệ mật thiết trong sự tái xuất hiện của một loại đồ gốm đơn cử nào đó ở những khu vực khác nhau. Nói chung, những kỹ thuật dễ thấy ( thể loại tiên phong trong số những kỹ thuật được đề cập ở trên ) là thuận tiện bắt chước và hoàn toàn có thể chỉ ra mối liên hệ xa hơn giữa những nhóm, ví dụ điển hình như kinh doanh trong cùng một thị trường hoặc thậm chí còn tương đối gần trong những khu định cư. [ 75 ] Các kỹ thuật yên cầu nhiều nhân bản nghiên cứu và điều tra ( như lựa chọn đất sét và tạo hình đất sét ) hoàn toàn có thể chỉ ra mối liên hệ gần hơn giữa những dân tộc bản địa, vì những chiêu thức này thường chỉ được những thợ gốm và những người trực tiếp sản xuất truyền đạt cho nhau. [ 75 ] Mối quan hệ như vậy yên cầu năng lực tiếp xúc hiệu suất cao của những bên có tương quan, ý niệm về những chuẩn mực tiếp xúc có từ trước hoặc ngôn từ chung giữa hai bên. Do đó, những quy mô phổ cập kỹ thuật làm xoong nồi hoàn toàn có thể nhận thấy trải qua những phát hiện khảo cổ học cũng cho thấy những quy mô tương tác xã hội .

Châu Đại Dương

Polynesia, Melanesia và Micronesia

Đồ gốm được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ trên khắp các hòn đảo của châu Đại Dương. Nó được cho là thuộc về một văn hóa khảo cổ cổ đại gọi là văn hóa Lapita. Một dạng đồ gốm khác được gọi là đồ gốm trơn được tìm thấy tại khắp các di chỉ ở châu Đại Dương. Mối quan hệ giữa đồ gốm Lapita và đồ gốm trơn không hoàn toàn rõ ràng.

Thổ dân châu Úc chưa từng làm đồ gốm. [ 76 ] Sau khi người châu u tới nước Australia định cư, họ đã tìm thấy những mỏ đất sét được thợ gốm Anh nghiên cứu và phân tích là có chất lượng tốt để làm đồ gốm. Chưa đầy 20 năm sau, những người châu u đến nước Australia và mở màn làm ra đồ gốm. Kể từ đó, sản xuất gốm sứ, gồm có đồ gốm sản xuất hàng loạt và đồ gốm nghệ nhân đã tăng trưởng mạnh ở nước Australia. [ 77 ]

Nguồn tìm hiểu thêm

Cooper Emmanuel, 2010. 10,000 Years of Pottery, ấn bản lần 4, Nhà in Đại học Pennsylvania. ISBN 978-0-8122-2140-4.Savage George, 1959. Pottery Through the Ages. Penguin.ASTM Standard C 242-01 Standard Terminology of Ceramic Whitewares and Related ProductsAshmore, Wendy & Sharer, Robert J., (2000). Discovering Our Past: A Brief Introduction to Archaeology Third Edition. Mountain View, California: Mayfield Publishing Company. ISBN 978-0-07-297882-7Barnett, William & Hoopes, John (Eds.) (1995). The Emergence of Pottery. Washington: Smithsonian Institution Press. ISBN 1-56098-517-8Childe, V. G., (1951). Man Makes Himself. London: Watts & Co.Rice, Prudence M. (1987). Pottery Analysis – A Sourcebook. Chicago: University of Chicago Press. ISBN 0-226-71118-8.Historynet.comTschegg, C., Hein, I., Ntaflos, Th., 2008. State of the art multi-analytical geoscientific approach to identify Cypriot Bichrome Wheelmade Ware reproduction in the Eastern Nile delta (Egypt). Journal of Archaeological Science 35, 1134-1147. Phương tiện liên quan tới Đồ gốm tại Wikimedia Commons

0 Shares
Share
Tweet
Pin