Đồng (đơn vị tiền tệ) – Wikipedia tiếng Việt

Xin xem các mục đến từ khác có cùng tên ở Đồng ( khuynh hướng )

Đồng (Mã giao dịch quốc tế: VND, ký hiệu: hoặc đ) chính là đơn vị tiền tệ của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

Theo pháp luật hiện hành của Nước Ta, Đồng Việt Nam là phương tiện đi lại thanh toán pháp quy duy số 1 tại Nước Ta, nghĩa chính là sản phẩm & hàng hóa hay dịch vụ tại thị trường Nước Ta phải được niêm yết giá trị thanh toán giao dịch bằng Đồng, người nhận tiền không đã được phép khước đến từ các tờ tiền được Ngân hàng Nhà nước Nước Ta pháp luật lưu hành bất kể mệnh giá ( theo điều 23 ) , và người trả tiền chưa được phép giao dịch thanh toán ép buộc bằng vật chất khác như tiền Đô la Mỹ hay kẹo. Một Đồng có giá trị bằng 10 hào, một hào chỉ bằng 10 xu. Hai đơn vị chức năng xu , hào vì quá nhỏ nên không còn được lưu thông nữa .

Tiền giấy (gồm chất liệu cotton , và polymer) được lưu hành hiện nay có các mệnh giá 100 ₫, 200 ₫, 500 ₫, 1000 ₫, 2000 ₫, 5000 ₫, 10.000 ₫, 20.000 ₫, 50.000 ₫, 100.000 ₫, 200.000 ₫ , và 500.000 ₫. Loại tiền này từng đã được gọi một cách dân dã chính là “tiền Cụ Hồ” vì trừ tờ 100 ₫ thì mặt trước của hầu hết các tờ tiền giấy đều in hình của Chủ tịch Hồ Chí Minh , và để phân biệt với loại tiền khác lưu hành trước đó tại Việt Nam, vốn cũng đã được gọi chính là “đồng”. Hiện nay, tờ 100 ₫ , và 200 ₫ gần như không còn được sử dụng, và khả năng này đang dần lan tới tờ 500 ₫.

Bạn đang đọc: Đồng (đơn vị tiền tệ) – Wikipedia tiếng Việt

Đồng (đơn vị tiền tệ) – Wikipedia tiếng Việt

Tiền sắt kẽm kim các loại ( tiền xu ) có các mệnh giá 200 ₫, 500 ₫, 1000 ₫, 2000 ₫ , và 5000 ₫. Tất cả gần như chưa còn được lưu hành trong thị trường. Tháng 4 năm 2011, Ngân hàng Nhà nước Nước Ta chính thức thông tin ngừng phát hành tiền xu. Tuy nhiên, cơ quan này không vô hiệu giá trị thanh toán giao dịch của tiền xu cũng như hai tờ tiền cotton mệnh giá 100 ₫ và 200 ₫, nên về mặt pháp lý tiền xu và hai tờ tiền cotton này hiện tại vẫn có giá trị lưu hành và giao dịch thanh toán hợp lệ tại Nước Ta. Tiền sắt kẽm kim loại ở Nước Ta thời xưa thường làm chỉ bằng đồng, tiền đồng trong Hán văn đã được gọi là ” đồng tiền ” ( chữ Hán : 銅錢 ). Từ thời Pháp thuộc đến nay ” đồng ” ( 銅 ) đến từ chỗ vốn là tên gọi của một thứ sắt kẽm kim các loại đã trở thành đơn vị chức năng tiền tệ chính thức ở Nước Ta, không phân biệt vật liệu gây nên sự tiền chính là gì .Đơn vị giám sát của tiền Nước Ta thời phong kiến là ” văn ” ( 文 ), ” mạch ” ( 陌 ), ” mân ” ( 緡 ), ” cưỡng ” ( 繦, còn được viết là 鏹 ), ” quán ” ( 貫 ). Tiền sắt kẽm kim loại khi dùng đơn độc được gọi là ” văn “. Chúng thường có lỗ ở giữa. Khi cần dùng nhiều văn người ta thường xỏ dây qua cái lỗ trên các văn tạo thành một xâu văn. Khi số lượng văn ở trên xâu văn đạt đến một vài lượng số 1 định nào đó tuỳ theo pháp luật của từng thời mà xâu văn ấy cũng sẽ được gọi chính là ” bách “, ” mân “, ” cưỡng “, ” quán ” .Vì ở trên tiền có văn tự vì vậy được gọi là ” văn tiền ” ( 文錢 ). Chữ ” văn ” 文 ở đây cũng như chữ ” đồng ” 銅 trong ” đồng tiền ” 銅錢 đã được tách ra dùng như một lượng từ để đo đếm tiền .” Mạch ” 陌 là dạng viết đại tả của chữ ” bách ” 百 có nghĩa chính là một trăm đã được mượn dùng để chỉ một trăm văn nhưng về sau chưa phải khi nào bách cũng đúng bằng một trăm văn .” Mân ” 緡, ” cưỡng ” 繦 / 鏹, ” quán ” 貫 bắt đầu là chỉ cái dây xâu tiền, được dẫn thân làm đơn vị chức năng đo đếm tiền .Các bản dịch tiếng Việt lúc bấy giờ của cổ tịch Hán văn Nước Ta thường chuyển các tên gọi ” văn “, ” bách “, ” mân “, ” cưỡng “, ” quán ” sang các đơn vị chức năng tiền tệ quen dùng ở Nước Ta thời tân tiến, ” văn ” bị gọi là ” đồng “, ” bách ” gọi là ” tiền “, ” cưỡng “, ” mân “, ” quán ” gọi chính là ” quan ” ( biến âm của ” quán ” 貫 ), gây ngộ nhận cho người đọc về đơn vị chức năng tiền tệ của Nước Ta thời xưa .Ngày nay, ” đồng ” cũng hoàn toàn có thể được người Việt dùng để chỉ đến các đơn vị chức năng tiền tệ quốc tế. Một số hội đồng dùng tiếng Việt ở hải ngoại cũng hoàn toàn có thể dùng ” đồng ” để chỉ đơn vị chức năng tiền tệ địa phương . Tờ bạc 100 đồng Đông Dương

Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là piastre, đã được dịch ra tiếng Việt chính là “đồng” hay đôi khi là “bạc”. Tiền tệ do chính quyền trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng các đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc México nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó chính là đồng bạc Đông Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết chính là 900 phần nghìn). Tiền giấy thời kỳ này đã được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Đệ số 1 Thế chiến xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ đã được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau một số giải pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương) có giá trị chính là 655 miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), đến từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng.

Tiền giấy 10 đồng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1951 Tiền 50 đồng Nước Ta Cộng hòa năm 1975

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 31 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 31 tháng 11 năm 1946, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán , và hình chủ tịch Hồ Chí Minh; một mặt in hình Nông – Công – Binh. các các loại giấy bạc đều có chữ số Ả rập, chữ Quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Khmer chỉ mệnh giá, có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố trung ương. Do đó ngoài tên gọi chính là “giấy bạc Cụ Hồ”, nhân dân còn gọi là “giấy bạc tài chính”. Ngày 5 tháng 6 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam , phát hành giấy bạc ngân hàng. Giấy bạc ngân hàng đổi lấy giấy bạc tài chính theo tỷ lệ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng tài chính. Giấy bạc ngân hàng có loại mệnh giá: 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Một mặt in chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” (chữ Hán , chữ quốc ngữ) , và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình công – nông – binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi chỉ bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán.

Về sau, việc liên lạc giữa địa phương và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung Bộ , Nam Bộ phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc ngân hàng chỉ khác là ở trên giấy bạc có chữ ký của Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ (Phạm Văn Bạch), đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ. Một số tỉnh đã được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế…. hoặc giấy bạc chỉ lưu hành trong tỉnh.

Thời kỳ đó, ở Nam Bộ nền kinh tế tài chính chia ra hai vùng, sử dụng hai loại tiền khác nhau, vùng thuộc trấn áp của Pháp lưu hành tiền do Pháp phát hành. Mặt khác, mặc dầu nhà nước phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng do phương tiện đi lại giao thông vận tải còn trở ngại vất vả nên các loại tiền này chưa hề đã được luân chuyển tiếp tục đến Nam Bộ. Chính do đó, sau Phương Pháp mạng tháng Tám, nhân dân Nam Bộ vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền sắt kẽm kim loại do Pháp phát ra .

Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi chính là đồng.

Ở miền Nam, đến từ năm 1953 đã cho lưu hành tiền đồng riêng không liên quan gì đến nhau . Khi mới thống nhất, tiền miền Nam đổi thành tiền giải phóng, với giá 500 đồng miền Nam cho mỗi đồng giải phóng đến từ Quảng Nam – TP. Đà Nẵng trở vào, ở Thừa Thiên Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải phóng .Vào năm 1978, sau khi thống nhất hai miền về mặt hành chính, lại có một cuộc đổi tiền nữa. Tỷ giá đổi tiền miền Bắc là 1 đồng thống số 1 bằng 1 đồng cũ, trong khi tại miền Nam 1 đồng thống số 1 bằng 8 hào tiền giải phóng .Lần đổi tiền thứ ba diễn ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới .

Chính sách tỷ giá hối đoái

Hối suất chính thức USD – Đồng

Năm

Hối suất

1986 1:22,74

1990 1:6.482,80

1995 1:11.038,25

2000 1:14.167,75

2005 1:15.858,92

2010 1:18.612,92

2015 1:21.697,57 Ngân hàng Nhà nước Nước Ta đang triển khai chủ trương quản trị tỷ giá hối đoái theo hướng thả nổi có trấn áp. Trong vòng vài ba năm trở lại đây ( quá trình 2003 – 2005 ), đồng Nước Ta có tỷ giá khá không thay đổi so với đồng đô la Mỹ do chủ trương của Ngân hàng Nhà nước chỉ cho đồng giảm giá khoảng chừng 1 % một năm. Sau khi đồng đô la Zimbabwe đổi giá vào đầu tháng 8 năm 2006, đơn vị chức năng đồng của Nước Ta trở thành đơn vị chức năng tiền thấp giá nhất ở trên quốc tế trong một thời hạn dài trước khi bị Rial Iran vượt qua. Hiện Nước Ta đồng chính là đồng tiền có giá trị thấp thứ 3 quốc tế, sau Rial Iran , và Bolívar Venezuela ) .Nước Ta đồng hiện vẫn là tiền tệ có năng lực tự do quy đổi thấp, chưa trở thành đồng tiền dùng trong giao dịch thanh toán quốc tế. Ngân hàng Nhà nước Nước Ta đang triển khai nỗ lực nâng cao năng lực tự do quy đổi của đồng Việt Nam bằng cách trước mắt nâng cao tỷ trọng giao dịch thanh toán xuất khẩu bằng đồng, tiến tới sử dụng đồng Nước Ta trong giao dịch thanh toán nhập khẩu song song với việc tự do hóa trọn vẹn thanh toán giao dịch vãng lai . Tháng 11 năm 2009, nhà nước Nước Ta quyết định hành động phá giá 5 % đồng tiền Nước Ta, đồng thời tăng lãi suất vay lên 8 %. Việc này được xem như thể hành vi làm căng thẳng mệt mỏi thị trường kinh tế tài chính châu Á, vì các nền kinh tế tài chính trong vùng đang tranh nhau tạo lợi thế với thị trường u Mỹ. [ 13 ]Ngày 11 tháng 2 năm 2010, Ngân hàng Nhà nước Nước Ta định lại mức tỷ giá trung bình liên ngân hàng nhà nước giữa Nước Ta đồng , và Đô la Mỹ, theo đó, một Đô la Mỹ bằng 18.544 đồng. Trước đó, mức tỷ giá chính là 17.941 đồng. Như vậy, đồng tiền Nước Ta bị phá giá 3,25 % so với Đô la Mỹ. [ 14 ] Đến ngày 28 tháng 2 năm 2010, mức tỷ giá ở thị trường chợ đen là 19.500 đồng .Ngày 17/08/2010, Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng / USD lên mức 18.932 đồng / USD, tăng 388 đồng. [ 14 ]Ngày 11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định hành động tăng tỷ giá trung bình liên ngân hàng nhà nước giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên 20.693 VND ( tăng 9,3 % ), cùng với đó chính là thu hẹp biên độ vận dụng cho tỷ giá của các ngân hàng nhà nước thương mại đến từ ± 3 % xuống còn ± 1 %. [ 15 ] Tuy nhiên đến ngày 19/02/2011 tỷ giá USD ở thị trường chợ đen là 22.300 đồng .Việc đồng tiền mất giá ở Nước Ta đã biểu lộ qua vài trường hợp đơn cử như một mái ấm gia đình gửi ngân hàng nhà nước tiết kiệm chi phí tháng 9 năm 1983 số tiền 90 đồng, giá trị một chỉ vàng. Đến tháng 3 năm năm ngoái, rút ra thì được hơn 20.000, chỉ mua đã được một ổ bánh mỳ kẹp thịt. [ 16 ]

Các mệnh giá đang lưu hành

Tiền sắt kẽm kim loại

Cũng như các quốc gia khác, ý tưởng ban đầu của việc phát hành tiền kim loại (tiền xu) chính là để dùng vào việc thanh toán tại các máy bán hàng tự động. Tuy nhiên, thời điểm phát hành tiền xu, thị trường thanh toán tự động , và hệ thống máy móc lại chưa phổ biến tại Việt Nam cho nên dân chúng vẫn dùng tiền xu song song với tiền giấy, đó là thói quen sai về mặt ứng dụng.

Tiền xu lại phiền phức hơn, nếu quy đổi thành cùng một mệnh giá tương tự, khối lượng tiền xu nặng hơn rất nhiều so với tiền giấy, gây trở ngại vất vả cho việc mang đựng, kiểm đếm. Kích cỡ bé, tròn nhưng nặng khiến cho tiền xu sẽ lăn rất xa nếu rơi , dễ vào chỗ hẹp như khe nhà, khe cống. Đã xảy ra các tai nạn đáng tiếc về việc trẻ nhỏ nuốt tiền xu. các phiền phức này cộng với việc máy bán hàng tự động hóa lúc bấy giờ đã tương tác được với tiền giấy, khiến cho tiền xu không còn chính là cách giao dịch thanh toán tự động hóa duy nhất. Tiền xu chưa còn đã được sử dụng trong đời sống hằng ngày tại Nước Ta trên trong thực tiễn, [ 17 ] mặc dầu giá trị thanh toán giao dịch của nó vẫn còn .

Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2002.

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin