Dung nham là gì!

Đừng nhầm lẫn với Nham thạch Vòi dung nham cao 10 m ở Hawaii, Hoa Kỳ

Dung nham[Ghi chú 1] là đá nóng chảy trào ra từ núi lửa trong quá trình phun trào. Khi phun trào từ núi lửa, nó ở thể lỏng ở nhiệt độ khoảng 1,200 đến 1,300 độ C. Mặc dù, dung nham khá nhớt, cao hơn nước khoảng 100.000 lần, nó có thể chảy trên một quãng đường dài trước khi đông nguội thành đá, do các đặc điểm thixotropic và shear thinning của nó.

Dòng dung nham là dòng chảy của dung nham, được tạo ra trong quá trình phun trào êm đềm (không phải phun nổ). Khi ngừng chảy, dung nham hóa rắn tạo thành đá mácma phun trào. Thuật ngữ dòng dung nham thường được gọi tắt là dung nham. Từ dung nham là Hán Việt 熔 (nóng chảy) 岩 (nham thạch). Phun nổ tạo ra hỗn hợp tro núi lửa và các mảnh vụn được gọi là tephra. Từ ‘lava’ (dung nham) xuất phát từ tiếng Ý và có thể có nguồn gốc từ tiếng Latin của labes có nghĩa là rơi, trượt. Thuật ngữ này được Francesco Serao dùng đầu tiên khi viết về phun trào magma của Vesuvius từ 14 tháng 5 đến 4 tháng 6 năm 1737. Serao đã mô tả “một dòng dung nham sọc” giống như dòng nước và bùn sau các trận mưa lớn.

Dung nham là gì!

Bạn đang đọc: Dung nham là gì!

Thành phần của dung nham

Dòng dung nham Pāhoehoe và ʻAʻā ở Big Island, Hawaii tháng 8 năm 2007Nhìn chung, thành phần của dung nham sẽ quyết định hành động đặc thù của nó hơn là nhiệt độ khi phun trào. Các đá mácma được hình thành từ dung nham hoàn toàn có thể được phân loại theo 3 nhóm dựa trên thành phần hóa học : felsic, trung gian, và mafic, tuy nhiên thành phần này cũng có khuynh hướng tương quan đến nhiệt độ mácma, độ nhớt và chính sách phun trào .

Dung nham felsic như ryolit và dacit đặc biệt hình thành từ lava spine, lava dome hay ‘coulees’ (là dung nham dày và ngắn) và liên quan với các trầm tích mảnh vụn (pyroclastic). Hầu hết các dòng dung nham felsic đều có độ nhớt rất cao, và đặc biệt là các mảnh vụn khi chúng phun trào, tạo ra các dăm kết dạng khối. Độ nhớt và độ bền cao là do thành phần hóa học của chúng chứa nhiều silica, nhôm, kali, natri, và calci tạo thành một chất lỏng polymer hóa giàu fenspat và thạch anh có độ nhớt cao hơn các loại mácma khác. Mácma felsic có thể phun trào ở nhiệt độ từ dưới 650 đến 750 °C. Dung nham ryolit bất thường (>950 °C) có thể chảy xa hàng km như ở đồng bằng sông Snake, tây bắc Hoa Kỳ.

Dung nham trung gian hay andesit có ít nhôm và silica và thường có nhiều magiê và sắt. Dung nham trung gian tạo thành các vòm andesit và dung nham khối, thường tạo thành các bậc của núi lửa hỗn hợp như ở Andes. Các dung nham nghèo nhôm và silica hơn dung nham felsic thường nóng hơn (trong khoảng 750 đến 950 °C), chúng có khuynh hướng ít nhớt hơn. Nhiệt độ lớn hơn làm phá hủy các liên kết polymer trong mácma, làm chúng có ứng xử giống chất lưu hơn và cũng có khuynh hướng hình thành các ban tinh. Do có thành phần sắt và magnesi cao hơn nên chúng nguội sẽ tạo thành các khối đá có màu tối hơn, thường là các khoáng vật amphibol hoặc pyroxen ở dạng ban tinh.

Dung nham mafic hay dung nham bazan đặc trưng bởi hàm lượng sắt, và magnesi cao, và nhiệt độ khi phun trào thường trên 950 °C. Mácma bazan có sắt và magnesi cao còn nhôm và silica tương đối thấp, chúng làm giảm mức độ polymer hóa ở trạng thái nóng chảy. Nhờ có nhiệt độ cao hơn, độ nhớt có thể tương đối thấp, mặc dù vẫn cao hơn độ nhớt của nước hang ngàn lần. Cấp độ polymer thấp và nhiệt độ cao thuận lợi cho sự khuếch tán hóa học, và vì vậy thường thấy các ban tinh định hình tốt và lớn trong dung nham mafic. Dung nham bazan có khuynh hướng tạo ra các núi lửa dạng khiên mỏng hoặc ‘đồng bằng bazan’, bởi vì các dùng dung nham tích tụ trên một diện rộng sau khi núi lửa phun trào. Bề dày của dung nham bazan đặc biệt là độ dốc nhỏ, có thể lớn hơn bề dày của dòng dung nham đang chảy, do dung nham bazan bị ‘giãn nở’ khi phun trào từ dưới mặt đất lên (áp suất và nhiệt độ cao hơn trong lòng đất). Hầu hết dung nham bazan thuộc các kiểu a’a hay ‘pahoehoe’, hơn là dung nham khối. Ở dưới nước, chúng có thể tạo thành ‘dung nham dạng gối’, tương tự như kiểu dung nham entrail-type pahoehoe trên cạn.

Dung nham siêu mafic như komatiit có hàm lượng mácma magnesi cao tạo thành boninit có nhiệt độ phun trào cực kỳ cao. Komatiit chứa hơn 18% magnesi oxide, và nhiệt độ khi phun trào khoảng 1.600 °C. Ở nhiệt độ này, sẽ không có cấu tạo polymer trong hợp chất khoáng vật, tạo thành chất lưu có độ linh động cao với độ nhớt thấp giống như nước. Hầu hết dung nham siêu mafic được hình thành trước Proterozoic, một vài tích mácma siêu mafic có tuổi Phanerozoic. Không có các komatiit hiện đại vì manti Trái Đất quá nguội để tạo ra mácma có magnesi cao.

Ứng xử của dung nham

Độ nhớt của dung nham là yếu tố quan trọng bởi vì nó xác định cách mà dung nham ứng xử. Dung nham có độ nhớt cao như ryolit, dacit, andesit và trachyt, và với dung nham bazan nguội cũng khá nhớt là những loại có độ nhớt thấp phun trào tạo ra bazan, carbonatit và đôi khi là andesit.

Dung nham độ nhớt cao bộc lộ những ứng xử như :

có khuynh hướng chảy chậm, clog, và tạo thành các khối bán rắn ngăn cản dòng chảy,có khuynh hướng giữ khí tạo thành các vesicle trong đá khi chúng dâng lên bề mặt.liên quan đến các vụ phun nổ (phreatic) cùng với các dòng tuff và pyroclastic.

Dung nham độ nhớt cao thường không chảy như chất lỏng mà tạo thành tro mảnh vụn phun nổ hoặc tích tụ tephra. Tuy vậy, dung nham độ nhớt degassed or one phun trào ở điều kiện kèm theo nào đó nóng hơn thông thường hoàn toàn có thể tạo ra thành dòng .Dung nham có độ nhớt thấp bộc lộ những ứng xử như :

có khuynh hướng dễ chảy, tạo thành puddles, kênh, và song đá nóng chảy,có khuynh hướng dễ giải phóng khí khi các khí nàu được sinh ra,các vụ phun trào hiếm khi tạo ra pyroclastic và thường xảy ra êm ả,các núi lửa có khuynh hướng tạo thành các riêng rộng hơn là các dạng hình nón có bậc

Có 3 dạng dòng dung nham độ nhớt thấp: ʻaʻā, pāhoehoe, và dung nham gối. Chúng được miêu tả liên quan đến các dòng dung nham bazan ở Hawaii (được đề cập ở các mục sau).

Dun
g nham cũng hoàn toàn có thể chứa một vài ít thành phần khác, nhiều lúc gồm có những tinh thể rắn của nhiều khoáng vật khác nhau, những mảnh vụn của đá có trước hay còn gọi là xenolith và những mảnh vụn của những dòng dung nham hóa rắn trước đó .

Hình dạng núi lửa

Ứng xử vật lý của dung nham tạo ra những hình dạng vật lý của dòng dung nham hoặc của núi lửa. Các dòng dung nham banzan mang tính chất lưu càng nhiều thì có khuynh hướng tạo ra những thể giống như những tấm mỏng dính, ngược lại thì tạo ra những dạng khối, bướu .

Các đặc điểm tổng quát của núi lửa học có thể được dùng để phân loại các núi lửa lớn và cung cấp thông tin về các vụ phun trào tạo các dòng dung nham, thậm chí đối với các tầng dung nham đã bị chôn vùi hoặc bị biến chất.

Dòng dung nham thông thường sẽ có đỉnh chứa mảnh vụn hoặc là phát triển dạng dung nham gối, autobreccia và loại mảnh vụn của khoáng ʻaʻā và dòng chảy nhớt, hoặc là chứa lỗ hổng như scoria hoặc pumice. Trên mặt của dòng dung nham sẽ có xu hướng biến thành thủy tinh, do nguội lạnh nhanh khi tiếp xúc với không khí hoặc nước.

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin