Geisha là gì – Wikipedia tiếng Việt

Geisha (tiếng Nhật: 藝[芸]者 – Nghệ giả, nghĩa đen là “con người của nghệ thuật”) là nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc lại vừa có khả năng trò chuyện, là một nghệ thuật giải trí truyền thống của Nhật Bản.

Thời thế kỷ 18 và 19 đã có rất nhiều geisha. Ngày nay các geisha vẫn còn hoạt động giải trí, tuy vậy số lượng ngày càng giảm .

Có nhiều nhầm lẫn, đặc biệt ở bên ngoài Nhật Bản, về bản chất của nghề geisha, coi đây là một hình thức mại dâm trá hình. Sự nổi tiếng của tiểu thuyết “Hồi ức của một geisha” (Memoirs of a Geisha) và bộ phim cùng tên càng làm các nhầm lẫn này trở nên phổ biến. Đúng là một số geisha thời cổ phải trải qua nghi thức mizuage (bán trinh tiết cho một người đàn ông trả giá cao nhất), nhưng nghi thức này là không bắt buộc, và nó cũng đã bị bãi bỏ từ lâu do Luật chống hoạt động mại dâm được Nhật Bản ban hành năm 1956. Công việc thông thường của một geisha là mua vui, nói chuyện tán tỉnh và đùa cợt khêu gợi (tuy vậy được nghệ thuật hóa theo các cách truyền thống), nhưng họ không bao giờ có quan hệ tình dục ( chỉ quan hệ tình cảm ) với khách hàng. Geisha là một loại hình biểu diễn văn nghệ văn hoá lành mạnh, cao cấp, hoàn toàn không có hành vi bán dâm, dung tục, rẻ tiền, tức chỉ “mại nghệ, không mại dâm”. Một số geisha có thể quyết định có quan hệ với một trong các nhà bảo trợ hoặc khách quen của mình, nhưng đó là khi họ ra ngoài và không còn biểu diễn với tư cách của một geisha (tương tự như việc có các diễn viên đi bán dâm khi không đóng phim, nhưng không thể vì thế mà chúng ta đánh đồng nghề diễn viên với mại dâm).

Geisha có vài nét tương đồng với ả đào trong văn hóa Việt xưa, hay sorikkun và kỹ sinh của văn hóa Triều Tiên hay nghệ kỹ trong văn hóa Trung Quốc.

Bạn đang đọc: Geisha là gì – Wikipedia tiếng Việt

Geisha là gì – Wikipedia tiếng Việt

Từ nguyên và các tên gọi

con người của nghệ thuật), viết bằng ” Nghệ giả ” ( ), viết bằng chữ Hán

Từ “nghệ giả” được hình thành từ hai chữ gei (藝 nghệ) và sha (者 giả) xuất phát từ phương ngữ Tokyo, được các ngôn ngữ phương Tây tiếp nhận dưới dạng geisha. Tiếng Nhật chuẩn gọi là “nghệ kĩ”, Geigi (藝妓, “nữ nghệ sĩ”), và họ được gọi theo phương ngữ Kansai (関西 Quan Tây) là “nghệ tử”, Geiko (藝子). Geisha trong thời gian học việc được gọi là “bán ngọc”, Han’gyoku (半玉) (tại Tōkyō) hay “vũ tử”, Maiko (舞子), hoặc “vũ kĩ”, Maigi (舞妓), (tại Kyoto).

Geisha, phát âm /ˈgeɪ ʃa/ (gei- phát âm như gây), là thuật ngữ quen thuộc nhất đối với người nói trong tiếng anh và cũng thường được sử dụng ở Nhật Bản.

Phát âm trong tiếng anh /ˈgi ʃa/ (gei- phát âm như ghi), như trong nhóm từ geisha girl, mang nghĩa rộng là gái mại dâm. Điều này liên quan đến thời kỳ Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi các phụ nữ trẻ cần tiền đã tự gọi mình là geisha và bán dâm cho lính Mỹ.

Ở Việt Nam, có người dịch geisha là “kỹ nữ Nhật”. tuy vậy, cách dịch này dễ gây hiểu nhầm, vì trong tiếng Việt, từ “kỹ nữ” có ý chỉ phụ nữ hoạt động mại dâm [1]. Có từ điển dịch geisha là “vũ nữ Nhật”. tuy vậy, cách dịch này không chính xác vì múa chỉ là một trong các loại hình nghệ thuật truyền thống mà geisha biểu diễn. Ngoài ra, có ít người sử dụng cách dịch này.[2].

Lịch sử và sự tiến hóa

Văn hoá Bushido đã góp thêm phần đưa tới sự sinh ra văn hoá Geisha. Võ sĩ đạo là một mạng lưới hệ thống luân lý đạo đức hoàn mỹ – một bộ giới luật bất thành văn mà người võ sĩ ( samurai ) phải tuân theo : ngay thật, quang minh chính đại, hùng vĩ, nghĩa hiệp … Là các tầng lớp quý tộc Nhật, các samurai sống rất có văn hoá, lấy thi ca, nhã nhạc, thư pháp làm trò vui chơi. Họ ưa được hưởng sự Giao hàng từ phía nữ giới dưới hình thức văn hoá lành mạnh hợp với tâm hồn võ sĩ, chứ không phải hình thức Giao hàng tình dục. Nhu cầu vui chơi thanh nhã ấy dẫn tới sự sinh ra của Geisha, chứ trọn vẹn không phải để thỏa mãn nhu cầu ham muốn tình dục. [ 3 ]

Geisha khởi nguồn là các người giải trí chuyên nghiệp, ban đầu họ hầu hết là nam giới. Geisha sử dụng kỹ năng nghệ thuật truyền thống Nhật Bản, trong đó có âm nhạc, múa và kể chuyện. “Geisha thành phố” (machi geisha) hoạt động tự do tại các buổi tiệc bên ngoài các khu phố giải trí, trong khi các “geisha khu phố” (kuruwa geisha) làm giải trí cho khách trong các buổi tiệc trong các khu phố giải trí. Trong khi các kỹ năng nghệ thuật của gái điếm hạng sang suy giảm, thì kỹ năng của các geisha, cả nam lẫn nữ, trở nên được yêu cầu cao hơn.

Geisha nam (đôi khi được gọi là hōkan) đã dần dần suy giảm, và cho đến năm 1800, sô lượng các geisha nữ (ban đầu được gọi là onna geisha với nghĩa là “geisha nữ”) đã gấp ba lần số geisha nam, và tên gọi geisha bắt đầu được hiểu với nghĩa như ngày nay là người phụ nữ làm nghề giải trí với trình độ cao.

Theo truyền thống lịch sử, geisha khởi đầu được giảng dạy từ khi còn nhỏ. Một số cô gái đã được bán cho các nhà geisha từ khi còn là trẻ con và mở màn học nhiều thể loại nghệ thuật và thẩm mỹ truyền thống cuội nguồn gần như ngay lập tức .

Trong thời thơ ấu, giai đoạn đầu tiên, đôi khi geisha làm việc với vai trò người hầu gái hay người giúp việc cho các geisha có kinh nghiệm, và tiếp theo, trong giai đoạn huấn luyện là vai trò geisha học việc (maiko). Kiểu đào tạo này cũng tồn tại trong các truyền thống khác của Nhật Bản, khi học viên sống trong nhà, bắt đầu với việc làm việc nhà và giúp đỡ người thợ chính, và cuối cùng chính người đó sẽ trở thành một người thợ chính.

Theo truyền thống lịch sử, geisha không được tương quan đến các hoạt động giải trí tình dục .

Geisha văn minh

Các geisha hiện đại vẫn sống trong các ngôi nhà geisha truyền thống gọi là okiya tại các khu vực gọi là hanamachi (花街 – “hoa nhai” – khu phố hoa), đặc biệt trong thời gian học việc của họ. tuy vậy, nhiều geisha giàu kinh nghiệm lại chọn cách sống trong các căn hộ của chính mình. Thế giới thanh lịch và văn hóa cao mà các geisha là một phần trong đó được gọi là karyūkai (花柳界, “hoa liễu giới” – thế giới của hoa và liễu).

Hiện nay, và các người phụ nữ trẻ muốn được trở thành geisha thường bắt đầu đợt đào tạo sau khi đã hoàn thành trung học cơ sở hay thậm chí trung học phổ thông hoặc đại học, nhiều người bắt đầu nghề nghiệp của họ khi đã ở tuổi trưởng thành. Geisha vẫn học các nhạc cụ truyền thống như shamisen, shakuhachi (sáo trúc), và trống, với cũng như các bài hát truyền thống, với múa cổ điển Nhật, trà đạo, ikebana (cắm hoa Nhật), văn học và thơ ca. Từ việc quan sát các geisha khác cùng với sự giúp đỡ của chủ nhà geisha, các người học việc cũng trở nên điêu luyện trong các truyền thống phức tạp xung quanh việc lựa chọn và mặc kimono, cũng như cách cư xử với khách hàng.

Ngày nay, và Kyoto là nơi có truyền thống geisha còn lại mạnh nhất. Hai trong số các khu phố geisha truyền thống và danh tiếng nhất là Gion và Pontochō đều ở Kyoto. Geisha trong các khu phố này được gọi là geiko. Các “khu phố hoa” Shimbashi, Asakusa và Kagurazaka tại Tokyo cũng nổi tiếng.

Ở Nhật Bản hiện đại ngày nay, và người ta hiếm khi nhìn thấy geisha và maiko. Vào năm 1920, tại Nhật Bản có trên 80 nghìn geisha, nhưng ngày nay chỉ còn dưới 1000 người[cần dẫn nguồn]. tuy vậy, các du khách đến khu Gion ở Kyoto rất dễ nhìn thấy một maiko đang trên đường đến hoặc về từ một cuộc hẹn.

Sự suy tàn của truyền thống lịch sử geisha có nguyên do từ nền kinh tế tài chính ì trệ, sự suy giảm của mối chăm sóc đến các mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ truyền thống cuội nguồn, thực chất khó nhìn thấu được của quốc tế hoa liễu, và ngân sách cao cho việc được geisha vui chơi .

Geisha thường được thuê để tham dự các buổi tiệc và tụ họp, theo truyền thống là tại các quán trà (茶屋, chaya) hoặc tại các nhà hàng Nhật Bản truyền thống (ryōtei). Thời gian làm việc của họ được đo theo thời gian một cây hương cháy hết, và được gọi là senkōdai (線香代, tuyến hương đại) hoặc gyokudai (玉代 ngọc đại – “giá ngọc”). Một từ khác để miêu tả chi phí là “ohana”, hay phí hoa. Khách hàng thỏa thuận sắp xếp qua văn phòng hiệp hội geisha (検番 kenban), nơi quản lý lịch làm việc của từng geisha và sắp xếp các cuộc hẹn của cô trong cả việc huấn luyện lẫn tiếp khách.

Geisha và mại dâm

Vẫn có một số nhầm lẫn, đặc biệt ở bên ngoài Nhật Bản, về bản chất của nghề geisha. Vấn đề này đã bị làm cho thêm phần rắc rối bởi gái mại dâm Nhật, đặc biệt tại các bể tắm onsen, các người muốn lợi dụng hình ảnh nổi tiếng của geisha bằng cách tự quảng cáo dối trá với các khách du lịch (cả người Nhật và người nước ngoài) rằng mình là “geisha”. Các miêu tả không chính xác về geisha trong văn hóa đại chúng phương Tây, và chẳng hạn trong tiểu thuyết và bộ phim Hồi ức của một geisha (Memoirs of a Geisha), cũng góp phần gây ra các hiểu nhầm về geisha.

Bìa cuốn Hồi ký của một Geisha

Theo truyền thống, với geisha không được kết hôn (hoặc khi kết hôn thì phải kết thúc sự nghiệp), tuy việc họ có con không phải là chuyện đặc biệt. Mặc dù nhiệm vụ của geisha thường bao gồm cả tán tỉnh và đùa cợt khêu gợi (tuy được mã hóa theo các cách truyền thống), nhưng họ không bao giờ có quan hệ tình dục với khách hàng và không được trả tiền cho hoạt động đó. tuy vậy, một số geisha có thể quyết định quan hệ với một trong các nhà bảo trợ hoặc khách quen (patron) của mình bên ngoài thời gian làm việc với vai trò geisha. Và vì các mối quan hệ đó có liên quan đến việc một khách hàng có khả năng trả tiền để được hưởng các phục vụ truyền thống của một geisha, người ta có thể dễ hiểu lầm rằng đây chẳng qua chỉ là một hình thức mại dâm bị bóp méo.

COO là gì? Khác nhau COO và CEO, CFO, CPO, CCO, CHRO, CMO?

Cũng theo truyền thống, với một geisha đã được công nhận có thể có một danna, hay người bảo trợ. Một danna thường là một người đàn ông giàu có, đôi khi đã có gia đình, người có điều kiện tài trợ các khoản chi tiêu rất lớn cho việc huấn luyện truyền thống và các chi phí đáng kể khác. Ngày nay, và việc này đôi khi cũng xảy ra.

Mặc dù một geisha và người bảo trợ của mình hoàn toàn có thể yêu nhau, nhưng theo tục lệ, mối quan hệ này nhờ vào vào năng lực phân phối kinh tế tài chính của người bảo trợ cho geisha. Các truyền thống lịch sử và giá trị bên trong quan hệ này rất phức tạp và khó hiểu, ngay cả so với nhiều người Nhật . Ngoại hình của một geisha biến hóa theo nghề nghiệp, từ kiểu trang điểm tươi tắn, đậm của một maiko, cho đến diện mạo được trang điểm trầm hơn của một geisha lớn tuổi và đã có tiếng . Ngày nay, và việc trang điểm truyền thống cuội nguồn của một geisha tập sự là một trong các nét đặc trưng hoàn toàn có thể nhận ra họ, tuy vậy, chỉ trong các buổi trình diễn đặc biệt quan trọng, với các geisha từng trải nói chung vẫn được trang điểm với bộ mặt dày lớp phấn trắng mà tạo nên tính cách của maiko .Trang điểm truyền thống lịch sử của một geisha tập sự gồm có một lớp phấn nền dày, và màu trắng với son môi màu đỏ và phần sắc đỏ và đen quanh mắt và lông mày .

Việc trang điểm này khó có thể đạt đến sự hoàn hảo và là một quá trình bị chi phối bởi thời gian. Trang điểm được thực hiện trước khi mặc trang phục để tránh làm bẩn bộ kimono. Đầu tiên, một ít sáp ong hoặc dầu, được gọi là bintsuke-abura, được bôi lên da. Tiếp theo, phấn trắng được trộn với một ít nước để tạo thành một hỗn hợp sền sệt và được bôi lên mặt với một cây cọ được làm từ tre. Lớp phấn trắng này sẽ bao phủ khắp mặt, cổ, ngực và đôi bàn tay, và và để lại hai hoặc ba vùng tối (vùng có dạng hình chữ “W” hoặc “V”) bên trái gáy, và để làm nhấn mạnh vùng gợi dục truyền thống, với và có chừa lại một đường viền không đánh xung quanh chân tóc, đường này tạo nên cảm giác “mặt nạ” của khuôn mặt sau khi trang điểm.

Sau khi đã phủ xong lớp phấn nền, một miếng bọt biển sẽ được sử dụng để dặm cho phấn đều khắp mặt, cổ, ngực và gáy để làm mất nhiệt độ dư thừa và lớp phấn được mịn. Tiếp theo, phần mắt và lông mày được vẽ lại. Bút chì than truyền thống lịch sử được sử dụng để vẽ mắt, nhưng ngày này, và người ta sử dụng các dụng cụ trang điểm tân tiến. Lông mày và các viền mắt được tô màu đen ; một maiko thường tô một màu đỏ quanh mắt .Người ta sử dụng một cây cọ nhỏ để tô đôi môi. Màu đỏ để tô lấy từ một ống nhỏ, màu hoàn toàn có thể tan trong nước. Đường kết tinh sau đó được cho thêm vào để đôi môi được bóng hơn .

Trong ba năm đầu tiên, một maiko luôn phải trang điểm dày như thế này. Trong giai đoạn khởi đầu của mình, maiko sẽ được một “người chị” giúp đỡ phần trang điểm (một geisha kinh nghiệm sẽ cố vấn cho cô) hoặc “mẹ” (okami) của ngôi nhà mà geisha đang ở và tập sự. Dần dần, maiko sẽ tự trang điểm lấy cho bản thân.

Sau khi geisha đã thao tác được ba năm, cô sẽ đổi khác trang điểm sang phong thái dịu hơn. Lý do cho việc làm này là cô đã trở thành một geisha thuần thục, và kiểu trang điểm đơn thuần sẽ cho thấy nét đẹp tự nhiên của cô. Trong một vài buổi tiệc sang trọng và quý phái các geisha thuần thục sẽ vẫn trang điểm kiểu lớp phấn trắng dày. Đối với các geisha trên ba mươi tuổi, việc trang điểm dày chỉ được thực thi khi trình diễn múa đặc biệt quan trọng vì đặc thù buổi diễn yên cầu như vậy . Geisha tại thành phố Niigata

Geisha thường xuyên mặc kimono. Geisha tập sự mặc bộ kimono có nhiều màu sắc với nơ lưng (obi) rất to. Geisha lớn tuổi hơn mặc trang phục với kiểu dáng và hoa văn dịu nhẹ hơn.

Màu sắc, hoa văn và kiểu kimono cũng nhờ vào vào mùa trong năm và sự kiện mà geisha tham gia. Vào mùa đông, với bên ngoài áo kimono, geisha hoàn toàn có thể khoác một chiếc áo choàng có chiều dài khoảng chừng bằng 3/4 so với kimono, áo choàng này được lót bằng lớp vải lụa có hoa văn vẽ bằng tay. Áo kimono có trần thêm vải lót sẽ được mặc khi thời tiết lạnh hơn, còn áo không trần được mặc vào mùa hè. Để may một chiếc kimono hoàn toàn có thể cần đến 2 hoặc 3 năm do phải thêu và vẽ lên vải .Khi ra ngoài, geisha đi dép có đế phẳng zori, còn khi ở nhà chỉ đi tabi ( tất chân có sẻ ngón màu trắng ). Vào lúc thời tiết khắc nghiệt, geisha sẽ đi một đôi guốc bằng gỗ, được gọi là geta. Maiko thường đi đôi guốc gỗ được sơn màu đen, gọi là okobo Kiểu tóc của geisha đã đổi khác nhiều qua các thời kỳ lịch sử dân tộc. Trong quá khứ, có thời kỳ phụ nữ thường để xoã tóc, có thời kỳ họ lại vấn tóc lên. Trong thế kỷ 17, các người phụ nữ lại khởi đầu cột tóc lên lần nữa và trong thời hạn này đã tăng trưởng kiểu tóc truyền thống cuội nguồn shimada – một dạng của kiểu tóc chignon mà hầu hết geisha thực thụ sử dụng .

Có bốn loại kiểu tóc shimada chính: kiểu taka shimada, kiểu này thường có búi tóc cao, được các cô gái trẻ, chưa chồng sử dụng; kiểu tsubushi shimada, có búi tóc thấp hơn được các người phụ nữ nhiều tuổi hơn sử dụng; kiểu uiwata, kiểu tóc có búi tóc được vấn với một mảnh vải bông màu; và kiểu tóc mà được chia múi tương tự như quả đào, chỉ được các maiko sử dụng.

Các kiểu tóc được trang điểm cầu kỳ với lược và trâm. Vào thế kỷ 17 và thời kỳ sau cải cách Minh Trị, các chiếc lược khá to và dễ thấy, và nói chung là với phụ nữ thuộc các tầng lớp càng cao thì mẫu mã lược càng lộng lẫy hơn. Sau thời kỳ cải cách Minh Trị và đến tiến trình văn minh, các chiếc lược nhỏ hơn và ít lộ liễu hơn đã trở nên thông dụng hơn .

Trước đây, và các geisha đã được huấn luyện việc ngủ không sử dụng gối mà chỉ kê gáy lên một cái kệ nhỏ (takamakura), để họ có thể giữ cho kiểu tóc của mình được hoàn hảo sau giấc ngủ. Để rèn luyện thói quen này, và các người hướng dẫn của họ rắc gạo quanh cái kê gáy. Nếu trong khi ngủ, đầu của geisha lăn khỏi kệ, các hạt gạo sẽ dính vào tóc và mặt họ.

Nhiều geisha văn minh sử dụng tóc giả trong đời sống chuyên nghiệp của họ. Các bộ tóc giả đó phải được bảo trì định kỳ bởi các nghệ nhân có kiến thức và kỹ năng cao. Làm tóc theo kiểu truyền thống cuội nguồn là một nghệ thuật và thẩm mỹ đang lụi tàn dần .

Geisha trong văn hóa truyền thống đại chúng

Ca sĩ Madonna trên bìa tạp chí dưới trang phục của một geisha.

LGBT là gì – Wikipedia tiếng Việt

Sự quan tâm ngày càng cao đối với geisha và ngoại hình đặc biệt của họ đã khơi lên nhiều hiện tượng văn hóa đại chúng ở cả Nhật Bản và phương Tây. Gần đây nhất là phong cách trang điểm “kiểu geisha” đã được đề xướng sau thành công và sự nổi tiếng của tiểu thuyết “Hồi ức của một geisha” (Memoirs of a Geisha) và bộ phim cùng tên.

Năm 1999, ca sĩ Mỹ Madonna đã Open trong video âm nhạc Nothing Really Matters trong phục trang kiểu geisha với bộ áo giống một chiếc kimono và trang điểm rất đậm với phấn nền màu trắng .

các ngành nghề tương tự:

Dalby, và Liza Crihfield (1983). Geisha. Berkeley, và California, United States: University of California PressForeman, Kelly M. (2002). “The Role of Music in the Lives and Identities of Japanese Geisha.” Ph.D. dissertation. Kent, Ohio, United States: Kent State University.Foreman, Kelly M. (2005). ‘Bad Girls Confined: Okuni, Geisha, and the Negotiation of Female Performance Space,’ in Bad Girls of Japan, edited by Laura Miller and Jan Bardsley. Palgrave MacMillain Press.Manabu Miyazaki (2005). Toppamono: Outlaw. Radical. Suspect. My Life in Japan’s Underworld. Kotan Publishing. ISBN 0-9701716-2-5.Phim tài liệu của BBC Geisha Girl. Công chiếu lần đầu trên kênh BBC Four tháng 1 năm 2006.Naomi Graham-Diaz. “Make-Up of Geisha and Maiko”. Immortal Geisha (2001). [1] Lưu trữ 2010-02-09 tại Wayback Machine.

Liên kết ngoài

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin