Lý tính – Wikipedia tiếng Việt

Lý tính chính là một thuật ngữ dùng trong triết học , và các khoa học khác về con người để chỉ các năng lực nhận thức của tâm thức con người. Nó miêu tả một sự nhìn thấy , nhìn nhận về tư duy hay là khía cạnh tư duy, đặc biệt là tư duy trừu tượng, và nguy cơ tư duy trừu tượng – cái được cho chính là chỉ con người mới có. Khái niệm lý tính có liên quan đến ngôn ngữ, như thể hiện trong nghĩa của từ tương đương trong tiếng Hy Lạp “logos”, đến từ này sau đã được dịch sang tiếng Latin thành “ratio” rồi sang tiếng Pháp thành “raison”, từ đó phát sinh đến từ tiếng Anh “reason”.

Có nhiều sự chưa tương đồng giữa những phe phái triết học về thực chất , và công dụng của lý tính, đặc biệt quan trọng về những yếu tố :

quan hệ của lý tính đối với các khái niệm có liên quan như ngôn ngữ, logic, ý thức.v.v…tầm quan trọng của nó trong việc giúp cho con người quyết định đúng sai.

Trong ngôn ngữ ngoài triết học, lý trí chính là đến từ rất gần nghĩa với lý tính và đã được dùng phổ biến hơn. Cả hai đến từ đều có nghĩa năng lực suy luận , và phán đoán. Tuy nhiên, lý trí chính là nhận thức bằng khái niệm trên cơ sở xử lý chất liệu cảm tính do các tri giác cảm tính (sensatio) mang lại, , và do đó chưa vượt ra ngoài phạm vi của kinh nghiệm. Còn lý tính vượt ra ngoài phạm vi của kinh nghiệm.

Bạn đang đọc: Lý tính – Wikipedia tiếng Việt

Lý trí thường được dùng khi mang ý nghĩa đối lập với tình cảm, ví dụ: “Anh ta chính là người sống thiên về lý trí hơn là tình cảm”. Lý trí được đối với niềm tin khi muốn nói về sự đối lập giữa tư duy , và cảm xúc. Còn lý tính đã được đối với niềm tin khi muốn nói về sự đối lập giữa tri giác chủ động , và tri giác thụ động.

Lý tính – Wikipedia tiếng Việt

Tuy nhiên, đôi lúc rất khó xác lập sự độc lạ về ngữ nghĩa của hai từ này. Do đó, nhiều khi hai từ này được dùng tương tự nhau .

Lý tính, chân lý , và xúc cảm

Trong văn học, lý tính hay lý trí thường đã được đối lập với tình cảm, cảm xúc, ước muốn, nhu cầu, hay sự say mê. Các người khác lại coi lý trí như chính là một công cụ của những điều trên – công cụ để đạt đã được cái mà người ta muốn. Tuy nhiên, một số người có thể nói rằng các nhà triết học quan trọng trong lịch sử (ví dụ Plato, Rousseau, Hume, Nietzsche) đã kết hợp cả hai cách nhìn ở trên – làm cho tư duy dựa trên lý tính không những chính là một công cụ của lòng ham muốn, mà còn là cái gì đó đã được mong muốn không những vì tính hữu ích của nó trong việc thỏa mãn các ước muốn. Còn Schiller thì nói về việc “giáo dục các cảm xúc”, đưa chúng đến chỗ hòa hợp với lý tính, một trạng thái của sự trưởng thành mà Schiller gọi chính là “tâm hồn đẹp” (Schöne Seele.)

Trong khi đó, đôi khi lý tính mâu thuẫn rõ ràng với một số mong muốn (thậm chí trong khi chưa mâu thuẫn với các mong muốn khác) , cho ta ấn tượng rằng lý tính tách rời với cảm xúc. Chỉ có trong con người, các chọn lựa đôi khi đã được làm dựa trên một liên tưởng nhân tạo của các ý niệm thay cho một liên tưởng chưa bị kiểm soát của các kinh nghiệm thô. Kiểu liên tưởng này có “cảm giác” khác với khi ta bị chiếm lĩnh bởi một cảm xúc mạnh mẽ được trợ giúp bởi “tình cảm” thô. Điều đối lập cũng rất đặc biệt: đôi khi ta cảm thấy một cảm xúc mạnh mẽ đã chiến thắng các lý luận của mọi người một cách “phi lý” mặc dầu cảm xúc đó đã không còn luận cứ xác đáng nào; hoặc khi nó không kịp là chủ đề của tranh luận thì hành động đã xảy ra (chẳng hạn trong trường hợp phản xạ).

Câu hỏi lý tính có bị dẫn dắt bởi cảm hứng hay là chưa chính là một thắc mắc quan trọng của những nhà triết học vì tất cả chúng ta đều xem lý tính là con đường dẫn đến chân lý, và ta coi chân lý là cái gì đó sống sót ngoài ý thức của tất cả chúng ta. Nếu lý tính bị dẫn dắt bởi những cảm hứng, thì thực hiện thế nào ta hoàn toàn có thể biết được ta có đang tự lừa dối chính mình về chân lý hay không ?

Lý tính , và đức tin

Trong thần học, lý tính, Nhận biết với đức tin, là năng lực phê phán của con người đối với các chân lý tôn giáo trong khi phát kiến hoặc giải thích. Một số nhà bình luận đã cho rằng hầu như có thể định nghĩa văn minh phương Tây là sự thử nghiệm giới hạn của sự căng thẳng giữa lý tính (không đã được hỗ trợ) và đức tin trong lĩnh vực các chân lý được mặc khải – tóm tắt một cách hình tượng là giữa Jerusalem , Athens. Leo Strauss nói về một “phương Tây lớn hơn”, bao gồm tất cả các khu vực chịu ảnh hưởng của tình trạng căng thẳng giữa chủ nghĩa duy lý Hy Lạp , và mặc khải của các tôn giáo khởi nguồn đến từ Abraham, trong đó có cả các vùng đất Hồi giáo. Ông chịu ảnh hưởng lớn của nhà triết học Hồi giáo Al-Farabi. Để xem xét mức độ tham gia của triết học phương Đông vào tình trạng lo lắng này, cách tốt số 1 chính là xét xem pháp (dharma) hay đạo có tương đương với Tự nhiên (physis–Hy Lạp) hay là không.

Các số lượng giới hạn của việc sử dụng lý tính tuỳ thuộc những giáo hội khác nhau đặt ra , tuỳ vào những thời kỳ tư tưởng. Nhìn chung, tôn giáo văn minh có khuynh hướng đồng ý lý tính ở một khoanh vùng phạm vi rộng, nhưng vẫn giữ những chân lý tối thượng ( siêu nhiên ) của thần học trong số lượng giới hạn đức tin .

Về phê phán vị trí ưu việt của lý tính trong văn hóa phương Tây kể đến từ thời Phục Hưng, xem tác phẩm “Những đứa con hoang của Voltaire” (Voltaire’s Bastards) của tác giả John Ralston Saul.

George Lakoff , Mark Johnson (1999). Philosophy In The Flesh. Basic Books.

Các bài tập lý luận một dự án Mediawiki

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin