Mol – Wikipedia tiếng Việt

Mol hay mole (ký hiệu: mol), là đơn vị đo lường dùng trong hóa học nhằm diễn tả lượng chất có chứa xấp xỉ 6,022.1023 số hạt đơn vị nguyên tử hoặc phân tử chất đó. Số 6,02214129(27)×1023 – được gọi là hằng số Avogadro (ký hiệu NA).Vd: 1 mol Fe hay 6.1023 nguyên tử Fe. Mol là một trong các đơn vị cơ bản của hệ SI.Trong các phép biến đổi các đại lượng, ta có khả năng làm tròn: N ≈ 6,022.1023.

Định nghĩa này đã được trải qua vào tháng 11 năm 2018, sửa đổi định nghĩa cũ của nó dựa trên số lượng nguyên tử trong 12 gam carbon-12 ( 12C ). Mol là một đơn vị chức năng SI, với ký hiệu đơn vị chức năng mol .Mol được sử dụng thoáng rộng trong hóa học như một phương pháp thuận tiện để bộc lộ lượng chất phản ứng và mẫu sản phẩm của các phản ứng hóa học. Ví dụ, phương trình hóa học 2H2 + O2 → 2H2 O hoàn toàn có khả năng được hiểu là 2 mol hydro ( H2 ) và 1 mol oxy ( O2 ) phản ứng tạo thành 2 mol nước ( H2O ). Mol cũng hoàn toàn có khả năng được sử dụng để biểu lộ số lượng nguyên tử, ion hoặc các thực thể khác trong một mẫu nhất định của một chất. Nồng độ của dung dịch thường được biểu lộ bằng số mol của nó, được định nghĩa là lượng chất hòa tan trên một đơn vị chức năng thể tích dung dịch, mà đơn vị chức năng thường sử dụng là mol trên lít ( mol / l ) .

Thuật ngữ phân tử gram trước đây được sử dụng cho cùng một Định nghĩa.. Thuật ngữ gram-nguyên tử đã được sử dụng cho một Định nghĩa liên quan nhưng khác biệt, cụ thể là một lượng chất chứa số lượng nguyên tử Avogadro, cho dù được phân lập hoặc kết hợp trong các phân tử. Do đó, ví dụ, 1 mol MgBr2 là 1 gram phân tử của MgBr2 nhưng 3 gram nguyên tử của MgBr2

: Mol – Wikipedia tiếng Việt

Bạn đang đọc: Mol – Wikipedia tiếng Việt

Các định nghĩa

Mol nguyên tử và mol phân tử

Tùy theo việc chọn hạt đơn vị chức năng mà mol được chia thành hai loại : mol nguyên tử và mol phân tử. Mol nguyên tử của một nguyên tố là lượng nguyên tố đó có chứa NA nguyên tử của nguyên tố đó .Ví dụ mol nguyên tử kali ( K ) có 6,02 × 1023 nguyên tử K. Mol phân tử của một chất là lượng chất của nA phân tử chất đó. Ví dụ 1 mol phân tử clo là lượng khí clo ( Cl2 ) có 6,023 × 1023 phân tử khí clo .

Khối lượng mol ( M )

Khối lượng mol ( ký hiệu là M ) của một chất là khối lượng của một mol chất tính ra gam của N nguyên tử hoặc phân tử chất đó, có giá trị bằng nguyên tử khối hay phân tử khối .

Khối lượng mol nguyên tử của một nguyên tố là khối lượng của 1 mol (6,023×1023) nguyên tử của nguyên tố đó. Ví dụ khối lượng mol nguyên tử của hydro (H) là xấp xỉ 1 gKhối lượng mol phân tử của một chất là khối lượng của 1 mol phân tử của chất đó. Ví dụ khối lượng mol phân tử của khí hydro (H2) là 2 g.

Khối lượng 1 mol nguyên tử và nguyên tử lượng chỉ giống nhau về trị số và khác nhau về đơn vị chức năng. nguyên tử lượng tính theo đơn vị chức năng khối lượng nguyên tử ( amu ). 1 amu bằng 1/12 khối lượng nguyên tử đồng vị cacbon-12, mà khối lượng của một nguyên tử đồng vị cacbon-12 là 1/12. 1,9926 × 10 − 23 g, từ đó suy ra 1 amu = 0,16605 × 10 − 23 g .Với một nguyên tử có khối lượng là m ( đơn vị chức năng gam ) thì nguyên tử lượng sẽ là M = m / 1,6605 × 10 − 23 ( Đơn vị cacbon )

Thể tích mol phân tử của một chất khí là thể tích của 1 mol phân tử của chất khí đó hoặc thể tích mol của chất khí là thể tích chiếm bởi N phân tử chất đó. Thể tích mol không đổi khi các điều kiện nhiệt độ và áp suất không đổi. Do đó ở 0 độ C và 1 bar (điều kiện tiêu chuẩn) thì 1 mol khí nào cũng có khả năng tích là 22,710980(38) lít

Tổng giám đốc điều hành – Wikipedia tiếng Việt

Nồng độ mol

Nồng độ mol tính bằng phương pháp chia số mol phân tử của một chất hoặc số mol ion của một loại ion có trong 1 lít dung dịch. Đơn vị SI cho nồng độ mol là mol / m3. Tuy nhiên, hầu hết tài liệu hóa học thường dùng đơn vị chức năng mol / dm3 hoặc mol dm − 3 ( tương tự mol / L ). Người ta cũng thường dùng ký hiệu chữ M in hoa, hoàn toàn có khả năng đi kèm tiền tố, ví dụ điển hình milimol trên lít được ký hiệu là mmol / L hoặc mM, micromol trên lít được ký hiệu là µmol / L hoặc µM, nanomol trên lít được ký hiệu là nmol / L hoặc nM . Lịch sử đơn vị chức năng mol tương quan ngặt nghèo với các Định nghĩa phân tử khối, đơn vị chức năng khối lượng nguyên tử, hằng số Avogadro và các Định nghĩa có tương quan khác .Bảng giá trị nguyên tử khối tương đối được John Dalton ( 1766 – 1844 ) xuất bản vào năm 1805, dựa trên một mạng lưới hệ thống mà trong đó nguyên tử khối tương đối của hydro được định nghĩa là bằng 1. Các giá trị trong bảng này dựa trên các cân đối hóa học lượng pháp trong phản ứng hóa học và trong hợp chất. Thời đó người ta còn tin rằng nhà hóa học không cần phải ưng ý kim chỉ nan nguyên tử ( một giả thuyết chưa được chứng tỏ vào thời gian đó ) khi cần vận dụng các loại bảng như thế này trong thực hành thực tế. Điều này đã dẫn đến 1 số ít nhầm lẫn giữa nguyên tử khối ( được triết lý nguyên tử tôn vinh ) và đương lượng gam ( được các kim chỉ nan cạnh tranh đối đầu với triết lý nguyên tử tôn vinh ), và sự nhầm lẫn này còn lê dài gần hết thế kỷ XIX .Jöns Jacob Berzelius ( 1779 – 1848 ) đã góp sức cho việc xác lập nguyên tử khối tương đối một phương pháp đúng mực hơn nhiều. Ông cũng là nhà hóa học tiên phong sử dụng giá trị nguyên tử khối oxy để làm chuẩn. Khác với hydro, oxy hoàn toàn có khả năng tích hợp với hầu hết các nguyên tố khác, đặc biệt quan trọng là sắt kẽm kim loại để tạo thành hợp chất, do đó rất hữu dụng. Tuy nhiên, người ta không ưu thích phương pháp gán giá trị cố định và thắt chặt là 100 làm nguyên tử khối của oxy của Berzelius .

Charles Frédéric Gerhardt (1816–1856), Henri Victor Regnault (1810–1878) và Stanislao Cannizzaro (1826–1910) là các người tiếp tục mở rộng công trình của Berzelius. Họ giải quyết nhiều vấn đề còn thắc mắc về hóa học lượng pháp của hợp chất, và việc sử dụng Định nghĩa nguyên tử khối đã thu hút đông đảo sự ủng hộ từ các người tham dự Đại hội Karlsruhe (1860). Tại đại hội này, giới hóa học gia quyết định quay về định nghĩa nguyên tử khối của hydro là bằng 1, mặc dù với mức độ chí
nh xác trong đo lường vào thời điểm đó (sai số tương đối khoảng 1%) thì giá trị này tương đương về mặt số học với giá trị chuẩn dựa trên oxy (16) sau này. Mặc dù vậy, khi ngành hóa học phân tích ngày một tiến bộ và con người bị thôi thúc phải xác định chính xác nguyên tử khối thì họ càng nhận ra sự tiện lợi khi dùng oxy làm chuẩn, và cuối cùng về sau họ cũng chấp nhận dùng nguyên tử khối của oxy-16 làm chuẩn. Từ thập niên 1960, mol được định nghĩa dựa trên cacbon-12.

Các chức danh trong tiếng Anh và phương pháp dùng

Tên gọi mol bắt nguồn từ tiếng Đức mol, do nhà hóa học Wilhelm Ostwald đặt ra vào năm 1894 dựa theo từ molekül của tiếng Đức (nghĩa là “phân tử”). Từ điển Merriam-Webster cho rằng từ gốc trong tiếng Đức là molekulärgewicht (nghĩa là “khối lượng phân tử”)

Ngày 23 tháng 10 hàng năm được gọi là Ngày Mol. Đây là một dịp nghỉ lễ không chính thức nhằm mục đích vinh danh đơn vị chức năng mol. Ngày mol hàng năm mở màn lúc 6 h02 sáng và kết thúc lúc 6 h02 tối. Nguồn gốc các mốc thời hạn này là giá trị của hằng số Avogadro ( 6,03 × 1023 ) .

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin