Phân tích ý nghĩa đoạn trích trao duyên trích truyện kiều của nguyễn du

Phân tích ý nghĩa đoạn trích trao duyên trích truyện kiều của nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.92 KB, 9 trang )

Phân tích ý nghĩa đoạn trích trao duyên trích truyện kiều của nguyễn du

Bạn đang đọc: Phân tích ý nghĩa đoạn trích trao duyên trích truyện kiều của nguyễn du

Phân tích ý nghĩa đoạn trích Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn DuMở bài:Truyện Kiều là kiệt tác văn học của đại thi hào Nguyễn Du. Không những phảnánh sâu sắc bộ mặt bất nhân, tàn bạo của xã hội phong kiến đương thời, truyệnKiều còn là nỗi xót xa vô hạn, niềm cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với bikịch cuộc đời của con người. Đặc biệt là người phụ nữ. Đoạn trích Trao duyên thểhiện sâu sắc bi kịch của nhân vật Thúy Kiều, mở đầu cho chuỗi bi kịch khốc liệt vềsau của nàng.

Thân bài:Đoạn trích Trao duyên trích từ câu 723-756 thuộc phần 2 (Gia biến và lưu lạc) củatruyện Kiều. Vì tên ván tơ vu oan, gia đình Kiều gặp sự biến lớn. Để cứu cha vàem thoát khỏi ngục tù và đòn roi tra tấn của bọn ác nhân, Thúy Kiều phải bán mìnhlàm lẽ cho Mã Giám Sinh. Trước khi ra đi, Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân vànhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích là lời dặn dò, tâm sựcủa Thúy Kiều với em gái để nhờ em một việc hệ trọng trong tâm trạng đau đớn vàtuyệt vọng.

Kiều đặt vấn đề thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân:“… Cậy em em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Tác giả sử dụng từ “cậy” chứ không phải là “nhờ”. Cậy là hoàn toàn tin tưởng mà gửigắm,hi vọng. Với thanh trắc, “cậy” mang âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đauđớn. Từ “cậy” còn hàm chứa sự tin cậy, nương tựa, trông chờ hoàn toàn vào sựgiúp đỡ của người khác. Sự kết hợp giữa nội dung và hình thức trong từ “cậy” giúpThúy Kiều dễ dàng hơn khi thổ lộ điều khó nói và làm tăng tính thuyết phục củalời nói của mình.

Khác với từ “cậy”, chữ “nhờ” không thể bộc lộ được mục đích của Kiều. “Nhờ”

không mang tính nghiêm trọng, cấp thiết và ràng buộc của sự việc. Người nghe cóthể từ chối. Có lẽ Thúy Kiều đã cân nhắc rất kĩ trước khi nói ra lời này.

Mặt khác, từ phía Thúy Vân, Thúy Kiều bắt phải “chịu lời”. Chịu là bị bắt buộc,phải thông cảm mà chấp nhận. Từ “chịu” cũng gợi sự thiệt thòi của Thúy Vân.Thúy Vân còn thơ dại, chưa đủ lớn khôn để nhận làm việc ấy. Nhưng tình cảm củaThúy Kiều dành cho Kim Trọng quá lớn. Lại thêm hai người đã thể nguyền sánhđôi, có trời đất chứng giám. Phụ tình chàng Kim là nỗi dằn vặt lớn đối với nàng.Dù biết sự tình khó khăn nhưng nàng cũng liều lĩnh nhờ cậy người em.

Sợ em từ chối, nàng chưa vội nói ra mà bắt Thúy Vân ngồi lên ghế trên rồi mới tỏbày. Một lần nữa, Nguyễn Du đã chọn lọc từ ngữ vô cùng kĩ lưỡng để cho Kiềuthực hiện việc trao duyên của mình. Với người em nhỏ mà nàng mời “ngồi lên”ghế trên “cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Hành động ấy chỉ dành cho người khả kính màthôi. Đó là một hành động bất thường, Thúy Vân cũng nhận rõ điều bất thường ấyở người chị của mình. Nàng cũng gắng gượng làm theo.

Trước hết, Kiều “lạy” để tạo không khí trang trọng, thiêng liêng và hé lộ việc đangcậy nhờ là vô cùng quan trọng. Đồng thời, “lạy” và “thưa” còn hàm ẩn sự biết ơnđến khắc cốt ghi tâm của Thúy Kiều đối với em. Sự việc bất ngờ, phi lí mà rất hợplí. Câu thơ chứa đầy nài nỉ, vạn xin, hạ mình hết mức, cho thấy được sự tâm trạngquằn quại, đau đớn của Thúy Kiều. Trong tình thế đớn đau đến thế mà nàng vẫn tỏra thông minh, không khéo đến lạ thường. Bút pháp xây dựng tình huống và miêutả của Nguyễn Du đạt đến độ tinh xảo hiếm thấy.

Khi Thúy Vân đã làm theo, Thúy Kiều bắt đầu thổ lộ tâm tư. Lời ai oán đau thươngnhư đứt từng khúc ruột:

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.Kể từ khi gặp chàng Kim,Khi ngày quạt ước khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kì,Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.Kiều nhắc về quá khứ khi gặp chàng Kim, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.Hạnh phúc tràn đầy, hứa hẹn một tương lai viên mãn. Rồi nàng nhắc đến hiện tạiđứt gánh tương tư, keo loan chắp mối tơ thừa, sóng gió bất kì. Nỗi khổ đau khithực tại lạo quá phũ phàng:

Kể từ khi gặp chàng Kim,Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Điệp từ “khi” nhắc lại hết sức rõ ràng những tháng ngày đã qua, những niềm vui đãcó, lời thề hẹn sánh đôi. Tình yêu ấy trãi qua biết bao ngày tháng em đẹp. Cách kểngắn gọn, vắn tắt, đầy đủ thể hiện mối tình sâu đậm, thiêng liêng.

Nàng nhắc đến hiện tại đứt gánh tương tư, keo loan chắp mối tơ thừa, sóng gió bấtkì. Nỗi khổ đau khi thực tại lạo quá phũ phàng:

Giữa đường đứt gánh tương tư,Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Thành ngữ đứt gánh tương tư là phương pháp nói giản dị nhưng đầy chua xót mối tìnhKim-Kiều. Điển tích keo loan chắp mối tơ thừa vừa phương pháp nói trang trọng lại vừađắng cay. Dù em có ưng thuận hay không thì nhất định em phải giúp chị làm điềunghĩa ấy. Kiều thấu hiểu hoàn cảnh của Vân và thương Vân vô cùng. Biết là vậynhưng nàng đang đứng giữa hau lằn ranh lựa chọn” hoặc là vì chữ hiếu mà bánmình chuộc cha, hoặc là vì tình mà bất nghĩ vong ân. Đó là nghịch cảnh trớ trêu và

Kiều đã vì chữ hiếu với cha mẹ mà hi sinh thân mình:

Sự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Kiều giãi bày tâm sự và hoàn cảnh để Thúy Vân thấu cảm, đồng thời đó cũng là sựbế tắc, tuyệt vọng của Kiều trên bước đường đời gian nan. Một sớm một chiềuduyên tình đổ vỡ, phận mình rồi đây chẳng biết ra sao. Thân gái thuyền quyên chưakịp hạnh phúc đã sớm bước vào biển đời gian truân.

Kiều tha thiết van xin em, đồng thời cũng lí giải đôi bề, lí tình trọn vẹn:

Ngày xuân em hãy còn dài,Xót tình máu mủ thay lời nước non.Chị dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Kiều chỉ ra rằng Thúy Vân vẫn còn trẻ, đẹp, son rỗi, tương lai rộng mở. Vân cũngchưa có hôn phu, chưa thề nguyền cùng ai, nghĩa là không có ràng buộc gì. Bởi thếmà hãy xót thương cho tình máu mủ thay chị làm tròn câu thề ước với Kim Trọng.

Nàng còn lấy cái chết để khẳng định lòng biết ơn bất tận: ngậm cười chín suối hãycòn thơm lây.

Hơn một lời cầu xin, lời nói của Kiều bằng cả lí trí và tình cảm. Câu thơ cuối cùngcũng là nỗi xót xa vô hạn mà nàng đang phải gánh chịu. Cuộc đời từ đây đối vớiThúy Kiều chẳng khác nào đã chết. Trái tim nàng đang khô cạn, hấp hối bởi vếtthương quá khắc nghiệt. Lấy cái chết để thuyết phục em nhưng thực nàng cũngđang nghĩ đến cái chết như một sự giải thoát. Đó là nỗi đau vô tận, sự tuyệt vọng

đến cùng cực của Thúy Kiều khi đối diện với nghịch cảnh của mình.

Ngôn ngữ chọn lọc, có sự kết hợp của phương pháp nói văn chương quý tộc và ngôn ngữbình dân, phương pháp nói khéo léo, chặt chẽ, có tình, có lí. Lời lẽ của nàng điềm tĩnh, rạchròi, song dường như có sự kìm nén tình cảm và nỗi đau.

Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân:Chiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ vật này của chung.Dù em nên vợ nên chồng,Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.Mất người còn chút của tin,Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Kỉ vật là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Lời của Kiềuchứa bao đau đớn, giằng xé, chua xót. Cách trao hết sức rõ ràng trong lời dặn dò kĩ

lưỡng. Nàng phân biệt của tin (vật làm tin giữa Kim – Kiều) và của chung (củaThúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân). Khuyên em duyên thì hãy giữ còn vật thì làcủa chung. Nghĩa là trao duyên nhưng tình không thể trao.

Cách ngắt nhịp 4/4, khiến câu thơ vừa khoáng dạt vừa nghẹn uất, thể hiện sự luyếntiếc, đau đớn, bi kịch duyên trao đi mà tình không thể trao được. Đến lúc này tìnhcảm của Thúy Kiều bùng lên dữ dội lấn át lí trí. Nàng dứt khoát nhưng lại nấn ná,chính nàng lại mâu thuẫn với mình.

Kiều đau khổ tự xem như mình là người đã chết, xem mình là “người mệnh bạc”,người bất hạnh, không may mắn không thoát ra được như một định mệnh.

Trao kỉ vật cho em mà lòng Kiều thổn thức, não nề, tiếc nuối và đau xót như vò xétâm can, khi dòng tình cảm vẫn cuồn cuộn trong tâm hồn Kiều.

Kiều còn dặn em những việc làm sau đó nữa. Mai sau dù có bao giờ tức là bất cứlúc nào, mỗi khi đốt lò hương hay gõ lên phím đàn mà thấy đất trời nổi gió, nghĩalà hồn chị theo khói hương, theo tiếng đàng mà tìm về:

Mai sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy so tơ phím này.Trông ra ngọn cỏ lá cây,Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên đã từng hiện về qua làn gió “ào ào đổ lộc rung cây”khi Kiều thắp hương bên mộ Đạm Tiên. Nàng đã hình dung số mệnh của mìnhchẳng khác gì Đạm Tiên, một kì nữ tài sắc mà mệnh bạc như vôi.

Kiều nói với Vân mà như đang nói với chính mình. Nhận ra bi kịch đau đớn, tuyệtvọng, nàng nghĩ đến cái chết. Một lần nữa, cái chết hiện về, có sức ám ảnh lớn laođối với Thúy Kiều. Càng nói càng khổ đau, càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng.Nguyễn Du đã vô cùng tinh tế khi từ lí trí đi đến lí trí, lấy tình cảm để thuyết phụctình cảm. Qua lời tâm sự tỏ bày thể hiện phẩm chất cao quý củ Thúy Kiều. Dùtrong nghiachj cảnh đớn đau nhưng nàng rất chu đáo, có lòng khoan dung, độlượng và giàu đức hi sinh, vị tha, luôn lo lắng, hiểu cho người trước khi nghĩ đếnmình

Với hệ thóng từ ngữ, hình ảnh và điển tích giàu sức bieur cảm: đốt hương, ngọn cỏ,lá cây, hiu hiu gió, hồn nặng lời thề, nát thân bồ liễu, dạ đài, phương pháp mặt khuất lời,người thác oan thể hiện sâu sắc tâm trạng hoang mang cùng cực của Thúy Kiều.Đó là tiếng nói thương xót thân phận, gọi hồn trong Truyện Kiều, Văn chiêu hồn,

Phản chiêu hồn của Nguyễn Du cho thấy nhà thơ quan tâm nhiều đến sự oan ứctrong cái chết của những người bất hạnh – một phương diện độc đáo của chủ nghĩanhân đạo Nguyễn Du.

Kiều tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng:Càng nhắc đến mối tình, Thúy Kiều càng đắng cay. Nàng tưởng tượng như đangnói lời tiễn biệt cùng Kim Trọng lúc này:

Bây giờ trâm gãy gương tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!Phận sao phận bạc như vôi!Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Thúy Kiều luôn ý thức về thực tại phũ phàng, trâm gãy gương tan, hoa trôi nướcchảy của mình. Thành ngữ trâm gãy gương tan/ phận bạc như vôi/ nước chảy hoatrôi là sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người.Kiều chuyển hẳn sang độc thoại nội tâm mang tính chất đối thoại với người vắngmặt. Cách gọi Kim Trọng thân thiết, mến yêu :tình quân, kim lang, chàng; hànhđộng: lạy để tạ lỗi với Kim Trọng và hàng loạt câu cảm thán, các từ cảm thán: ôi,hỡi, thôi thôi thể hiện sức chịu đựng tinh thần của nàng Kiều đã đạt tới đỉnh điểm,tất cả đều vỡ òa thành tiếng khóc và nỗi tuyệt vọng đến cùng cực. Mọi thứ dườngnhư chấm dứt, bóng tối giang khắp lối trên con đường nàng tiến về phía trước.

Trong đoạn trích, diễn biến tâm trạng của Kiều được thế hiện như thế nào qua các

lời thoại. Về hình thức, ta thấy toàn bộ đoạn trích là lời thoại của Kiều với ThuýVân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng, như đang đối thoại với Kim Trọngchứ không còn nói với Thuý Vân nữa, có lúc nàng tự nói với chính mình (những từngữ và hình ảnh gợi lại kỉ niệm tình yêu hoặc “Bây giờ…ái ân!” cũng là tự nói vớimình). Thúy Kiều tưởng tượng trước mặt mình là Kim Trọng, nàng vật vã trongnỗi đau của tình duyên lỡ dở. Kiều không chỉ nghĩ đến nỗi đau khổ của mình màcòn nghĩ đến nỗi đau khổ của người yêu, nàng xót thương cho chàng Kim

Kết bài:Với đoạn trích Trao duyên, Nguyễn Du tỏ ra là bậc thầy kiệt xuất trong nghệ thuậtmiêu tả tâm lí nhân vật. Không những thấu hiểu những gì đang diễn ra bên trongtinh thần của Thúy Kiều, ông còn làm cho nó biểu hiện hết sức nghệ thuật, có tầncó lớp hết sức thuyết phục và cảm động. Qua sự miêu tả sự bấn loạn tinh thần của

Thúy Kiều trong xung đột tinh thần đầy đau đớn, Nguyễn Du đã thể hiện nỗi xót xacủa mình, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nàng Kiều.

không mang tính nghiêm trọng, cấp thiết và ràng buộc của vấn đề. Người nghe cóthể khước từ. Có lẽ Thúy Kiều đã xem xét rất kĩ trước khi nói ra lời này. Mặt khác, từ phía Thúy Vân, Thúy Kiều bắt phải “ chịu lời ”. Chịu là bị bắt buộc, phải thông cảm mà đồng ý. Từ “ chịu ” cũng gợi sự thiệt thòi của Thúy Vân. Thúy Vân còn thơ dại, chưa đủ lớn khôn để nhận thao tác ấy. Nhưng tình cảm củaThúy Kiều dành cho Kim Trọng quá lớn. Lại thêm hai người đã thể nguyền sánhđôi, có trời đất chứng giám. Phụ tình chàng Kim là nỗi dằn vặt lớn so với nàng. Dù biết sự tình khó khăn vất vả nhưng nàng cũng liều lĩnh nhờ cậy người em. Sợ em khước từ, nàng chưa vội nói ra mà bắt Thúy Vân ngồi lên ghế trên rồi mới tỏbày. Một lần nữa, Nguyễn Du đã tinh lọc từ ngữ vô cùng kĩ lưỡng để cho Kiềuthực hiện việc trao duyên của mình. Với người em nhỏ mà nàng mời “ ngồi lên ” ghế trên “ cho chị lạy rồi sẽ thưa ”. Hành động ấy chỉ dành cho người khả kính màthôi. Đó là một hành vi không bình thường, Thúy Vân cũng nhận rõ điều không bình thường ấyở người chị của mình. Nàng cũng gắng gượng làm theo. Trước hết, Kiều “ lạy ” để tạo không khí sang trọng và quý phái, thiêng liêng và hé lộ việc đangcậy nhờ là vô cùng quan trọng. Đồng thời, “ lạy ” và “ thưa ” còn hàm ẩn sự biết ơnđến khắc cốt ghi tâm của Thúy Kiều so với em. Sự việc giật mình, phi lí mà rất hợplí. Câu thơ chứa đầy nài nỉ, vạn xin, hạ mình hết mức, cho thấy được sự tâm trạngquằn quại, đau đớn của Thúy Kiều. Trong tình thế đớn đau đến thế mà nàng vẫn tỏra mưu trí, không khéo đến lạ lùng. Bút pháp kiến thiết xây dựng trường hợp và miêutả của Nguyễn Du đạt đến độ tinh xảo hiếm thấy. Khi Thúy Vân đã làm theo, Thúy Kiều khởi đầu thổ lộ tâm tư nguyện vọng. Lời ai oán đau thươngnhư đứt từng khúc ruột : Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kể, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. Kiều nhắc về quá khứ khi gặp chàng Kim, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Hạnh phúc tràn trề, hứa hẹn một tương lai viên mãn. Rồi nàng nhắc đến hiện tạiđứt gánh tương tư, keo loan chắp mối tơ thừa, sóng gió bất kể. Nỗi khổ đau khithực tại lạo quá phũ phàng : Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước khi đêm chén thềĐiệp từ “ khi ” nhắc lại rất là rõ ràng những tháng ngày đã qua, những niềm vui đãcó, lời thề hẹn sánh đôi. Tình yêu ấy trãi qua biết bao ngày tháng em đẹp. Cách kểngắn gọn, vắn tắt, vừa đủ bộc lộ mối tình sâu đậm, thiêng liêng. Nàng nhắc đến hiện tại đứt gánh tương tư, keo loan chắp mối tơ thừa, sóng gió bấtkì. Nỗi khổ đau khi thực tại lạo quá phũ phàng : Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Thành ngữ đứt gánh tương tư là phương pháp nói giản dị và đơn giản nhưng đầy chua xót mối tìnhKim-Kiều. Điển tích keo loan chắp mối tơ thừa vừa phương pháp nói sang chảnh lại vừađắng cay. Dù em có ưng thuận hay không thì nhất định em phải giúp chị làm điềunghĩa ấy. Kiều đồng cảm thực trạng của Vân và thương Vân vô cùng. Biết là vậynhưng nàng đang đứng giữa hau lằn ranh lựa chọn ” hoặc là vì chữ hiếu mà bánmình chuộc cha, hoặc là vì tình mà bất nghĩ vong ân. Đó là nghịch cảnh trớ trêu vàKiều đã vì chữ hiếu với cha mẹ mà hi sinh thân mình : Sự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn haiKiều giãi bày tâm sự và thực trạng để Thúy Vân thấu cảm, đồng thời đó cũng là sựbế tắc, vô vọng của Kiều trên bước đường đời nguy hiểm. Một sớm một chiềuduyên tình đổ vỡ, phận mình rồi đây chẳng biết thế nào. Thân gái thuyền quyên chưakịp niềm hạnh phúc đã sớm bước vào biển đời gian nan. Kiều tha thiết van xin em, đồng thời cũng lí giải đôi bề, lí tình toàn vẹn : Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Kiều chỉ ra rằng Thúy Vân vẫn còn trẻ, đẹp, son rỗi, tương lai rộng mở. Vân cũngchưa có hôn phu, chưa thề nguyền cùng ai, nghĩa là không có ràng buộc gì. Bởi thếmà hãy xót thương cho tình máu mủ thay chị làm tròn câu thề ước với Kim Trọng. Nàng còn lấy cái chết để chứng minh và khẳng định lòng biết ơn bất tận : ngậm cười chín suối hãycòn thơm lây. Hơn một lời cầu xin, lời nói của Kiều bằng cả lí trí và tình cảm. Câu thơ cuối cùngcũng là nỗi xót xa vô hạn mà nàng đang phải gánh chịu. Cuộc đời từ đây đối vớiThúy Kiều chẳng khác nào đã chết. Trái tim nàng đang khô cạn, hấp hối bởi vếtthương quá khắc nghiệt. Lấy cái chết để thuyết phục em nhưng thực nàng cũngđang nghĩ đến cái chết như một sự giải thoát. Đó là nỗi đau vô tận, sự tuyệt vọngđến cùng cực của Thúy Kiều khi đối lập với nghịch cảnh của mình. Ngôn ngữ tinh lọc, có sự phối hợp của phương pháp nói văn chương quý tộc và ngôn ngữbình dân, phương pháp nói khôn khéo, ngặt nghèo, có tình, có lí. Lời lẽ của nàng tỉnh bơ, rạchròi, tuy nhiên có vẻ như có sự kìm nén tình cảm và nỗi đau. Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân : Chiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền rất lâu rồi. Kỉ vật là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Lời của Kiềuchứa bao đau đớn, giằng xé, chua xót. Cách trao rất là rõ ràng trong lời dặn dò kĩlưỡng. Nàng phân biệt của tin ( vật làm tin giữa Kim – Kiều ) và của chung ( củaThúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân ). Khuyên em duyên thì hãy giữ còn vật thì làcủa chung. Nghĩa là trao duyên nhưng tình không hề trao. Cách ngắt nhịp 4/4, khiến câu thơ vừa khoáng dạt vừa nghẹn uất, bộc lộ sự luyếntiếc, đau đớn, thảm kịch duyên trao đi mà tình không hề trao được. Đến lúc này tìnhcảm của Thúy Kiều bùng lên kinh hoàng ép chế lí trí. Nàng dứt khoát nhưng lại nấn ná, chính nàng lại xích míc với mình. Kiều đau khổ tự xem như mình là người đã chết, xem mình là “ người mệnh bạc ”, người xấu số, không suôn sẻ không thoát ra được như một định mệnh. Trao kỉ vật cho em mà lòng Kiều thổn thức, não nề, hụt hẫng và đau xót như vò xétâm can, khi dòng tình cảm vẫn cuồn cuộn trong tâm hồn Kiều. Kiều còn dặn em những việc làm sau đó nữa. Mai sau dù có khi nào tức là bất cứlúc nào, mỗi khi đốt lò hương hay gõ lên phím đàn mà thấy đất trời nổi gió, nghĩalà hồn chị theo khói hương, theo tiếng đàng mà tìm về : Mai sau dù có khi nào, Đốt lò hương ấy so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên đã từng hiện về qua làn gió “ ào ào đổ lộc rung cây ” khi Kiều thắp hương bên mộ Đạm Tiên. Nàng đã tưởng tượng số mệnh của mìnhchẳng khác gì Đạm Tiên, một kì nữ tài sắc mà mệnh bạc như vôi. Kiều nói với Vân mà như đang nói với chính mình. Nhận ra thảm kịch đau đớn, tuyệtvọng, nàng nghĩ đến cái chết. Một lần nữa, cái chết hiện về, có sức ám ảnh lớn laođối với Thúy Kiều. Càng nói càng khổ đau, càng nghĩ càng thêm vô vọng. Nguyễn Du đã vô cùng tinh xảo khi từ lí trí đi đến lí trí, lấy tình cảm để thuyết phụctình cảm. Qua lời tâm sự tỏ bày biểu lộ phẩm chất cao quý củ Thúy Kiều. Dùtrong nghiachj cảnh đớn đau nhưng nàng rất chu đáo, có lòng khoan dung, độlượng và giàu đức hi sinh, vị tha, luôn lo ngại, hiểu cho người trước khi nghĩ đếnmìnhVới hệ thóng từ ngữ, hình ảnh và điển tích giàu sức bieur cảm : đốt hương, ngọn cỏ, lá cây, hiu hiu gió, hồn nặng lời thề, nát thân bồ liễu, dạ đài, phương pháp mặt khuất lời, người thác oan biểu lộ thâm thúy tâm trạng hoang mang lo lắng cùng cực của Thúy Kiều. Đó là lời nói thương xót thân phận, gọi hồn trong Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, Phản chiêu hồn của Nguyễn Du cho thấy nhà thơ chăm sóc nhiều đến sự oan ứctrong cái chết của những người xấu số – một phương diện độc lạ của chủ nghĩanhân đạo Nguyễn Du. Kiều tâm sự với Kim Trọng trong nỗi vô vọng : Càng nhắc đến mối tình, Thúy Kiều càng đắng cay. Nàng tưởng tượng như đangnói lời tiễn biệt cùng Kim Trọng lúc này : Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm thế nào xiết muôn vàn ái ân ! Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi ! Phận sao phận bạc như vôi ! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang ! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây ! Thúy Kiều luôn ý thức về thực tại phũ phàng, trâm gãy gương tan, hoa trôi nướcchảy của mình. Thành ngữ trâm gãy gương tan / phận bạc như vôi / nước chảy hoatrôi là sự tan vỡ, dở dang, bạc nghĩa, trôi nổi của tình duyên và số phận con người. Kiều chuyển hẳn sang độc thoại nội tâm mang đặc thù đối thoại với người vắngmặt. Cách gọi Kim Trọng thân thiện, mến yêu : tình quân, kim lang, chàng ; hànhđộng : lạy để tạ lỗi với Kim Trọng và hàng loạt câu cảm thán, những từ cảm thán : ôi, hỡi, thôi thôi biểu lộ sức chịu đựng niềm tin của nàng Kiều đã đạt tới đỉnh điểm, toàn bộ đều vỡ òa thành tiếng khóc và nỗi vô vọng đến cùng cực. Mọi thứ dườngnhư chấm hết, bóng tối giang khắp lối trên con đường nàng tiến về phía trước. Trong đoạn trích, diễn biến tâm trạng của Kiều được thế hiện như thế nào qua cáclời thoại. Về hình thức, ta thấy hàng loạt đoạn trích là lời thoại của Kiều với ThuýVân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng người tiêu sử dụng, như đang đối thoại với Kim Trọngchứ không còn nói với Thuý Vân nữa, có lúc nàng tự nói với chính mình ( những từngữ và hình ảnh gợi lại kỉ niệm tình yêu hoặc “ Bây giờ … ái ân ! ” cũng là tự nói vớimình ). Thúy Kiều tưởng tượng trước mặt mình là Kim Trọng, nàng vật vã trongnỗi đau của tình duyên lỡ dở. Kiều không chỉ nghĩ đến nỗi đau khổ của mình màcòn nghĩ đến nỗi đau khổ của tình nhân, nàng xót thương cho chàng KimKết bài : Với đoạn trích Trao duyên, Nguyễn Du tỏ ra là bậc thầy kiệt xuất trong nghệ thuậtmiêu tả tâm lí nhân vật. Không những đồng cảm những gì đang diễn ra bên trongtinh thần của Thúy Kiều, ông còn làm cho nó bộc lộ rất là nghệ thuật và thẩm mỹ, có tầncó lớp rất là thuyết phục và cảm động. Qua sự miêu tả sự bấn loạn niềm tin củaThúy Kiều trong xung đột ý thức đầy đau đớn, Nguyễn Du đã bộc lộ nỗi xót xacủa mình, đồng thời ca tụng những phẩm chất tốt đẹp của nàng Kiều .

0 Shares
Share
Tweet
Pin