Tiếng Hy Lạp được hiểu như thế nào?

Tiếng Hy Lạp (Tiếng Hy Lạp hiện đại: ελληνικά [eliniˈka], elliniká, hoặc ελληνική γλώσσα [eliniˈci ˈɣlosa] (nghe), ellinikí glóssa) là một ngôn ngữ Ấn- u, bản địa tại Hy Lạp, Tây và Đông Bắc Tiểu Á, Nam Ý, Albania và Síp. Nó có lịch sử ghi chép dài nhất trong tất cả ngôn ngữ còn tồn tại, kéo dài 34 thế kỷ. Bảng chữ cái Hy Lạp là hệ chữ viết chính để viết tiếng Hy Lạp; vài hệ chữ khác, như Linear B và hệ chữ tượng thanh âm tiết Síp, cũng từng được sử dụng. Bảng chữ cái Hy Lạp xuất phát từ bảng chữ cái Phoenicia, và sau đó đã trở thành cơ sở cho các hệ chữ Latinh, Kirin, Armenia, Copt, Goth và một vài khác nữa.

Tiếng Hy Lạp có một vị trí quan trọng trong lịch sử Thế giới phương Tây và Kitô giáo; nền văn học Hy Lạp cổ đại có những tác phẩm cực kỳ quan trọng và giàu ảnh hưởng lên văn học phương Tây, như Iliad và Odýsseia. Tiếng Hy Lạp cũng là ngôn ngữ mà nhiều văn bản nền tảng trong khoa học, đặc biệt là thiên văn học, toán học và logic, và triết học phương Tây, như những tác phẩm của Aristoteles, được sáng tác. Tân Ước trong Kinh Thánh được viết bằng tiếng Hy Lạp Koiné.

Vào thời cổ đại Hy-La (Hy Lạp-La Mã), tiếng Hy Lạp là một lingua franca, được sử dụng rộng rãi trong vùng ven Địa Trung Hải. Nó trở thành ngôn ngữ chính thức của Đế quốc Byzantine, rồi phát triển thành tiếng Hy Lạp Trung Cổ. Dạng hiện đại là ngôn ngữ chính thức của hai quốc gia, Hy Lạp và Síp, là ngôn ngữ thiểu số được công nhận tại bảy quốc gia khác, và là một trong 24 ngôn ngữ chính thức của Liên minh châu u. Ngôn ngữ này được nói bởi hơn 13 triệu người tại Hy Lạp, Síp, Ý, Albania, và Thổ Nhĩ Kỳ.

Tiếng Hy Lạp đã được nói trên bán đảo Balkan từ khoảng thiên niên kỷ 3 TCN, hay thậm chí sớm hơn nữa. Bằng chứng chữ viết cổ nhất của tiếng Hy Lạp được biết đến là một tấm bảng đất sét Linear B tìm thấy tại Messenia có niên đại khoảng năm 1450 đến 1350 TCN,[12] khiến tiếng Hy Lạp trở thành ngôn ngữ cổ nhất còn tồn tại. Trong số các ngôn ngữ Ấn- u, chỉ các ngôn ngữ Tiểu Á (Anatolia) có chữ viết cổ tương đương, nhưng chúng đều đã tuyệt chủng.

Bạn đang đọc: Tiếng Hy Lạp được hiểu như thế nào?

Tiếng Hy Lạp được hiểu như thế nào?

Các thời kỳ

Lịch sử tiếng Hy Lạp hoàn toàn có thể được chia ra làm những thời kỳ sau :

Phân bố địa lý

Biển chỉ đường, A27 Motorway, Hy Lạp Bản đồ phân bổ người có gốc gác Hy Lạp ở Hoa Kỳ ( màu càng đậm càng tập trung chuyên sâu nhiều người ) .Tiếng Hy Lạp được nói bởi khoảng chừng 13 triệu người, đa phần tại Hy Lạp, Albania và Síp, nhưng cũng hiện hữu tại những nơi có kiều dân Hy Lạp. Có những điểm dân cư truyền thống cuội nguồn nói tiếng Hy Lạp tại những nước gồm ( quanh vùng biển đen ) Bulgaria, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina, Nga, Romania, Gruzia, Armenia, Azerbaijan, ( quanh Địa Trung Hải ) Ý, Syria, Israel, Ai Cập, Liban, và Libya. Kiều dân Hy Lạp xuất hiện ở Tây u và châu Mỹ, nhất là tại Vương quốc Liên hiệp, Đức, Canada, và Hoa Kỳ .

Địa vị chính thức

Đây là ngôn từ chính thức của Hy Lạp, nơi gần như toàn dân số nói tiếng Hy Lạp. [ 15 ] Nó cũng là ngôn từ chính thức của Síp ( trên danh nghĩa là cùng với tiếng Thổ Nhĩ Kỳ ). [ 16 ] Vì Hy Lạp và Síp là thành viên Liên minh châu u, tiếng Hy Lạp là một ngôn 24 ngôn từ chính thức của tổ chức triển khai. [ 17 ] Thêm nữa, tiếng Hy Lạp là ngôn từ thiểu số được công nhận tại vài vùng ở Nam Ý, và chính thức tại Dropull và Himara ( Albania ). Trong suốt lịch sử dân tộc, cấu trúc âm tiết của tiếng Hy Lạp ít biến hóa : được cho phép những cụm phụ âm đầu hiện hữu nhưng hạn chế về phụ âm cuối. Tiếng Hy Lạp văn minh chỉ có nguyên âm miệng và phân biệt 1 số ít nhất định những phụ âm. Các biến hóa này hầu hết diễn ra vào thời hạn chuyển tiếp giữa Cổ Hy Lạp qua La Mã :

đơn giản hóa hệ thống nguyên âm và nguyên âm đôi: sự phân biệt giữa nguyên âm dài và ngắn mất đi, nguyên âm đơn hóa đa số nguyên âm đôi và sự thay đổi dây chuyền về /i/ (iotacism).hai phụ âm tắc bật hơn vô thanh / pʰ / và / tʰ / trở thành các phụ âm xát vô thanh / f / và / θ /; điều tương tự với / kʰ / (biến thành

/x/

) có lẽ xảy ra sau đó.các âm tắt hữu thanh / b /, / d /, và / ɡ / trở thành âm xát hữu thanh / β / (sau đó thành /v/), / ð /, và / ɣ /.

Bất kể thời kỳ nào, hình thái tiếng Hy Lạp luôn cho thấy một tập hợp phụ tố phái sinh phong phú, một mạng lưới hệ thống từ ghép số lượng giới hạn nhưng mang tính sản sinh [ 18 ] và một mạng lưới hệ thống biến tố phức tạp .

Danh từ, đại từ và tính từ

Đại từ phân biệt về ngôi ( thứ nhất, thứ hai, và thứ ba ), số ( số ít, số đôi, và số nhiều ở những dạng cổ ; số ít và số nhiều ở dạng tân tiến ), và giống ( giống đực, giống cái, và giống trung ) và sự biên tố theo phương pháp ( sáu phương pháp ở dạng cổ nhất và bốn phương pháp ở dạng ngày này ). [ 19 ] Danh từ, mạo từ và tính từ phải hợp với những thể loại ngữ pháp trên, trừ ngôi .

Tiếng Hy Lạp cổ đại

Tiếng Hy Lạp hiện đại

Ngôi

thứ nhất, thứ hai, và thứ ba thêm đại từ ngôi thứ hai tôn trọng

Số

số ít, số đôi, và số nhiều số ít, và số nhiều

Thì thì hiện tại, thì quá khứ và thì tương lai

thì quá khứ và phi quá khứ (thì tương lai được thể hiện bằng cấu trúc câu)

Thể

chưa hoàn thành, hoàn thành (aorist) và hoàn thành tiếp diễn

chưa hoàn thành, và hoàn thành/aorist

Thức

thức trình bày, thức cầu khẩn, thức mệnh lệnh, và thức mong mỏi

thức trình bày, thức cầu khẩn,[20] và thức mong mỏi (các lối khác có thể được dựng lên nhờ cấu trúc câu)

Thái

thái chủ động, trung gian, và thái bị động

thái chủ động, và thái “trung-bị động”

0 Shares
Share
Tweet
Pin