Tổ chức xã hội – Wikipedia tiếng Việt

Tổ chức xã hội là khái niệm thường dùng trong xã hội học, và có thể được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc rộng. Theo nghĩa rộng, tổ chức xã hội để chỉ bất kể tổ chức nào trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, thì tổ chức xã hội là một tiểu hệ thống xã hội trong một tổ chức xã hội nào đó.

Nhóm xã hội

Khái niệm Nhóm xã hội

Nhóm xã hội là một đối tượng nghiên cứu quan trọng của nhiều lĩnh vực khoa học như xã hội học, triết học, tâm lý học, v.v… Bởi vì các mối quan hệ giữa các cá nhân trong thực tế là quan hệ giữa các nhóm xã hội. Trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, thuật ngữ nhóm đã được dùng với cả hai nghĩa – Nhóm quy ước và Nhóm thực.

Bạn đang đọc: Tổ chức xã hội – Wikipedia tiếng Việt

Nhóm quy ước là các nhóm không tồn tại trong thực tế mà chỉ do mọi người lập ra theo các biểu hiện số 1 định để nghiên cứu, xem xét nó. Thí dụ, việc khảo sát xã hội học, các nhà lý thuyết phân chia các đối tượng khảo sát thành các nhóm một cách có chủ định theo tuổi, trình độ học vấn, thu nhập,… để xem xét các vấn đề mà họ quan tâm đã được thể hiện như thế nào trong các nhóm đó. Hình thức “nhóm quy ước” thường được sử dụng trong thống kê.Nhóm thực chính là một tập hợp người tồn tại trong thực tế, nơi mà chúng ta tập hợp cùng nhau, liên kết với nhau chỉ bằng một cái gì chung nào đó: giá trị, mục đích.

Xã hội tác động tác động tới các cá thể trải qua nhóm. Vì vậy, cần phải xem xét các ảnh hưởng ảnh hưởng của nhóm với tư cách chính là người trung gian giữa cá thể , và xã hội. Cần phải xem xét nhóm như thể một tập hợp, một tiểu mạng lưới hệ thống của xã hội trong một toàn cảnh xã hội to lớn. Hoạt động xã hội, dạng đơn cử , các hình thức của nó là yếu tố link cơ bản và chính là dấu hiệu chính của nhóm xã hội. Sự tham gia chung của các thành viên của nhóm vào trong một hoạt động giải trí chung nhờ vào vào cơ cấu tổ chức tổ chức của nhóm. trái lại, cơ cấu tổ chức xã hội, tiểu văn hóa truyền thống của nhóm cũng tác động ảnh hưởng tới hoạt động giải trí của các thành viên .

Đặc trưng cơ bản của nhóm

các thông số cơ bản số 1 của nhóm là thành phần, cấu trúc, các quá trình của nhóm, chuẩn mực , và giá trị nhóm. Mỗi một thông số có thể có các ý nghĩa rất khác nhau phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận nào đó đã được dùng trong nghiên cứu. Thành phần của nhóm có thể được miêu tả theo các chỉ báo hết sức khác nhau như giới, nghề nghiệp, tuổi đời. Tất nhiên chưa thể có một phương thức thống số 1 để miêu tả thành phần nhóm. Trong mỗi trường hợp cụ thể cần phải bắt đầu đến từ chỗ nhóm thực tế nào đó đã được chọn lựa như chính là khách thể nghiên cứu: lớp học trung học, đội bóng, đội xây lắp máy,… Nói cách khác lập tức ta đưa ra một tập hợp nào đó các đặc trưng của nhóm phụ thuộc vào dạng hoạt động mà nhóm này gắn vào.

Tổ chức xã hội – Wikipedia tiếng Việt

Nhóm là chủ thể của hoạt động , và nhận thức, nên việc phân tích cấu trúc hoạt động của nhóm rất nhiều quan trọng. Vì thế, về cấu trúc nhóm, có thể nêu một vài dấu hiệu như cấu trúc giao tiếp, cấu trúc lựa chọn, cấu trúc quyền lực.

Phân loại nhóm

Căn cứ

Việc phân loại nhóm có nhiều quan điểm khác nhau, nhìn chung mỗi đặc trưng của nhóm đều hoàn toàn có thể chính là tiêu chuẩn để phân các loại nhóm. Tuy nhiên, sự phân tán các tiêu chuẩn phân các loại gây trở ngại vất vả cho việc khảo sát , và khảo sát nhóm. Do vậy, các nhà triết lý dùng một tổng hợp để phân loại nhóm như sau :

Mức độ phát triển của văn hóa;Dạng cấu trúc;Nhiệm vụ và chức năng;Dạng tư tưởng chủ đạo;Thời gian tồn tại của nhóm;Nguyên tắc gia nhập;Hình thức hoạt động của nhóm.

Phân loại

Căn cứ vào các tiêu chuẩn phân các loại này, hoàn toàn có thể đưa ra 1 số ít các loại nhóm như sau :

Nhóm quy ước – nhóm thực;Nhóm thí nghiệm – nhóm tự nhiên;Nhóm nhỏ – nhóm lớn;Nhóm lớn có tổ chức – nhóm lớn chưa có tổ chức;Nhóm đang hình thành – tập thể;Nhóm sơ cấp – thứ cấp.

Khái niệm Tổ chức xã hội

Khái niệm tổ chức xã hội được dùng với nhiều nghĩa khác nhau trong các ngành khoa học khác nhau , trong tư duy đời thường. Tổ chức xã hội hoàn toàn có thể đã được hiểu hoặc chính là một thành tố của cơ cấu tổ chức xã hội, hoặc là một dạng hoạt động giải trí, hay là mức độ trật tự nội tại, sự hòa giải giữa các thành phần của một chỉnh thể. Khái niệm tổ chức xã hội đã được xem như thể một thành tố của cơ cấu tổ chức xã hội ; với ý nghĩa này, tổ chức xã hội là một mạng lưới hệ thống các quan hệ, tập hợp link cá thể nào đó để đạt đã được một mục tiêu nhất định. Như vậy, định nghĩa này nhấn mạnh vấn đề đến mạng lưới hệ thống các quan hệ link cá thể chứ không phải chính tập hợp cá thể trong các tổ chức và các quan hệ ở đây là các quan hệ xã hội. Nếu như giữa tập hợp các cá thể chưa có các quan hệ xã hội thì họ không thể được coi là thành viên của một tổ chức xã hội nào đó. Các quan hệ này sẽ link các cá thể vào một nhóm để họ cùng thực thi một hoạt động giải trí chung nào đó nhằm mục đích đạt được các quyền lợi số 1 định .Tóm lại, hoàn toàn có thể hiểu tổ chức xã hội chính là một dạng nhóm thứ cấp khá phổ cập, nhưng không phải mọi nhóm thứ cấp đều là tổ chức xã hội. Các nhà khảo sát xã hội học đã phát hiện ra các tín hiệu cơ bản số 1 của tổ chức xã hội như sau :

Nhóm xã hội được lập ra có chủ định , các thành viên của nhóm đó ý thức được rằng nhóm của họ tồn tại để đạt đã được mục đích nhất định nào đó. Thí dụ, trường học được chính quyền lập ra phục vụ cho các lợi ích xã hội , các người thực hiện việc ở trường học cũng ý thức đã được mục đích tồn tại của nó.Nhóm xã hội đã được xem chính là tổ chức xã hội phải có sự thể hiện cụ thể các quan hệ quyền lực xã hội, tức là có quan hệ lãnh đạo – phục tùng, có các cá nhân có nguy cơ điều chỉnh hành vi, thái độ của người khác thuộc nấc thang quyền lực thấp hơn. Nói cách khác, trong các nhóm này có người nhiều quyền lực , các người ít quyền lực hơn. Họ đã được phân bố trong mạng lưới các quan hệ quyền lực theo thứ bậc ở trên – dưới, cao – thấp.Cùng với hệ thống các quan hệ quyền lực, tổ chức xã hội là một tập hợp các vị thế , và vai trò. Mỗi một thành viên của tổ chức xã hội có vị thế xác định trong nhóm. Họ đã là thành viên của tổ chức thì bao giờ họ cũng được trao các trách nhiệm và quyền hạn nhất định, dù họ là các người đứng thấp số 1 trong thang bậc quyền lực của tổ chức. Để làm tốt các trách nhiệm , vị thế của từng thành viên, tổ chức xã hội cũng đặt ra cho các thành viên này một tập hợp hành vi được phép thực hiện , và các hành vi chưa đã được làm.Vai trò của các thành viên tổ chức xã hội được làm theo sự mong đợi của tổ chức. Nhưng nếu chúng ta tự phát thực hiện các vai trò này thì có thể dẫn đến sự rối loạn hoạt động. Chính vì lẽ đó, trong mọi tổ chức luôn có các quy tắc điều chỉnh mối quan hệ giữa các vai trò. Các quy tắc này sẽ phối hợp việc làm vai trò của các thành viên khiến cho tổ chức hoạt động đã được nhịp nhàng, ổn đinh.Phần lớn các mục đích , các mối quan hệ của tổ chức được chính thức và công khai. Không chỉ lãnh đạo của tổ chức mà các thành viên, thậm chí cả người ngoài tổ chức đều có thể biết đến mục đích của phần nhiều các hoạt động của tổ chức. Các tương tác giữa các thành viên và các thành viên của tổ chức với bên ngoài phần nhiều dựa ở trên vị thế , vai trò của họ đã được thừa nhận một cách chính thức.

Phân các loại Tổ chức xã hội

Nhóm uy quyền (Charismatic groups)

Theo như cách phân loại về các nhóm xã hội, nhận thấy rằng hầu như tất cả chúng đều rơi vào một trong hai dạng là nhóm sơ cấp hay là nhóm thứ cấp. Thực tế, có một số nhóm có các đặc điểm của một tổ chức xã hội, , và các đặc điểm cơ cấu của một nhóm sơ cấp – Đó chính là nhóm uy quyền. các các loại nhóm này do một thủ lĩnh đầy uy quyền lãnh đạo , dẫn dắt. Thủ lĩnh có một khả năng thu hút, lôi cuốn quần chúng một cách đặc biệt (charisma). Người thủ lĩnh đó đã được coi là có các năng lực vượt trội hoặc ít ra chính là khác thường. các thành viên trong nhóm tôn sùng thủ lĩnh và sẵn sàng hiến dâng phần lớn sức lực của mình cho thủ lĩnh. Thí dụ: Chúa Giê Su , các môn đồ của chúa; Phật Thích Ca , và các môn đồ – nhóm uy quyền đặc trưng. Nhóm uy quyền gần giống với hiện tượng chính trị phổ biến ở nhiều nước trên thế giới – sùng bái cá nhân. Tuy nhiên, nhóm này chưa hoàn toàn trùng lập, bởi vì một cá nhân nào đó có thể được sùng bái tột đỉnh nhưng cá nhân đó vẫn không đã được coi là năng lực siêu nhân, hoặc các người chưa đồng tình, chưa tán thành với thủ lĩnh này có thể hợp thành một nhóm đối lập với số lượng đáng kể. Đặc điểm quan trọng của nhóm uy quyền chính là nhóm này dễ bị biến đổi , và phụ thuộc nhiều vào thủ lĩnh của nhóm. Thông thường, thủ lĩnh của nhóm thường tự giải quyết các vấn đề mà chưa cần tham khảo ý kiến của các thành viên trong nhóm. Vị thế , vai trò của các thành viên trong nhóm không đã được xác lập theo các quy tắc khách quan, mà theo mối quan hệ với thủ lĩnh. Sự ràng buộc giữa thủ lĩnh với các thành viên của nhóm chủ yếu chính là sự ràng buộc cá nhân chứ chưa tuân theo quy tắc hay là theo luật pháp chính thức như các tổ chức xã hội thông thường. Do vậy, các ràng buộc này kém bền vững, đặc biệt nó càng kém bền vững xét đến từ góc độ của thủ lĩnh.

Nhóm uy quyền hoạt động đã được thường là dựa vào sự đóng góp của các thành viên dưới danh nghĩa bổn phận. Tuy nhiên, nhóm cũng có thể có các nguồn thu nhập đến từ việc sản xuất kinh doanh. Dần dần, trong nhóm uy quyền sẽ mở ra các chức vụ, thứ loại, quyền lực dưới thủ lĩnh. Từ đó, các dạng nhóm uy quyền sẽ chuyển thành các nhóm có tính tổ chức cao – Tổ chức xã hội. Về bản chất nhóm uy quyền là một dạng tổ chức sơ khai với các đặc điểm cấu trúc lỏng lẻo , và kém bền vững. Nhưng trong quá trình phát triển, các nhóm uy quyền cũng sẽ chuyển thành các dạng như tổ chức xã hội;

Tổ chức tự nguyện (Voluntary associations)

Tổ chức tự nguyện có các đặc điểm chính như sau:

Vì các lợi ích và nhu cầu của các thành viên;Việc tham gia tổ chức chính là hoàn toàn tự nguyện;Tổ chức tự nguyện chưa liên quan nhiều với chính phủ.

Tổ chức tự nguyện hoạt động giải trí dựa vào các thành viên chưa hưởng lương, tổ chức này thiếu một cơ cấu tổ chức chắc như đinh hoặc một mạng lưới hệ thống quyền lực tối cao cưỡng bức. Do đặc thù tự nguyện này, mà tổ chức tự nguyện hành vi không bị ràng buộc ngặt nghèo, vì vậy tổ chức tự nguyện thường lôi cuốn phần đông thành viên. Và cũng chính vì sự phần đông này, nên tổ chức tự nguyện thường có năng lực gây nên các nguồn kinh phí đầu tư lớn nhờ vào sự góp phần, hỗ trợ vốn. Tổ chức tự nguyện hoàn toàn có thể tăng trưởng thành các tổ chức phức tạp đã được gọi là cỗ máy quan liêu. Thực tế cho thấy rằng, tổ chức tự nguyện ( Thương Hội các người chăn nuôi, Hội đồng hương, Hội cha mẹ, … ) chính là các tổ chức chưa hề thiếu trong đời sống xã hội. Nó phân phối được một phần nhu yếu tổ chức hoạt động giải trí đời sống của các thành viên trong xã hội, đồng thời vẫn tôn trọng tự do cá thể của các thành viên trong tổ chức .

Tổ chức biệt lập (Total institution)

Tổ chức biệt lập chính là một dạng tổ chức xã hội nằm trên một cực đối lập so với các hiệp hội, tổ chức tự nguyện. Sự đối lập này thể hiện ở chỗ, các tổ chức tự nguyện đã được lập ra nhằm mục đích phục vụ , thúc đẩy các hoạt động , lợi ích của các thành viên, trong khi các tổ chức biệt lập được lập ra để đáp ứng phục vụ cho lợi ích của chính phủ, của tôn giáo, hay là là của xã hội nói chung. Đặc trưng quan trọng nhất của tổ chức này chính là các thành viên của tổ chức bị cô lập, tách biệt khỏi xã hội. Phần lớn các thành viên của tổ chức biệt lập không phải chính là tự nguyện, thậm chí có một số trường hợp do cưỡng bức, như nhà tù thì tù nhân trở thành thành viên hoàn toàn miễn cưỡng , do luật pháp quy định. Xã hội , các tổ chức biệt lập đặt ra nhiều luật lệ, quy tắc để duy trì trật tự, đồng thời khiến các thành viên phụ thuộc lẫn nhau. Tổ chức biệt lập có cơ cấu quan hệ phân hóa ở trên – dưới rất chặt chẽ.

Tổ chức biệt lập được chia thành bốn loại sau

Tổ chức dành cho các người chưa thể tự chăm sóc bản thân mình;Tổ chức được lập ra để giam giữ, cách ly các phần tử nguy hại theo quy định của luật pháp;Tổ chức được lập ra để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt;Tổ chức được lập ra để thu hút các người thích tự mình rút lui khỏi đời sống xã hội.

Tổ chức quan liêu

Tổ chức quan liêu là tổ chức mà hoạt động của nó được phân chia thành các vai trò, các vai trò này được xác định bởi các quy tắc, thủ tục , và được sắp xếp vào một thứ bậc quyền lực. Các tổ chức tự nguyện , tổ chức biệt lập là hai dạng nằm ở trên cực hai đối lập nhau của tổ chức xã hội. Hai dạng này chỉ đại diện cho một bộ phận nhỏ các tổ chức. Trong xã hội hiện đại, tổ chức quan liêu có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin