Uốn ván và các điều cần biết về DPT

Vắc xin DPT ( trong chương trình TCMR ) là vắc xin có tính năng phòng 3 bệnh truyền nhiễm : Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván hấp phụ. Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ) cảnh báo nhắc nhở, đây là 3 dịch bệnh đã gieo rắc cái chết cho hàng triệu người.

Bài viết được sự tư vấn của Bác sĩ Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa Hệ thống Trung tâm tiêm chủng cho Trẻ em và Người lớn VNVC.

Hằng năm, trên toàn thế giới có khoảng 30-50 triệu ca mắc và hơn 300.000 người tử vong vì Ho gà. Chỉ trong năm 2017, toàn cầu ghi nhận 38.000 người chết vì Uốn ván và 8.819 ca mắc Bạch hầu. Nhóm trẻ em lớn và người lớn mắc ho gà được báo cáo tại các quốc gia ngày càng gia tăng, đặc biệt trẻ nhỏ dưới 1 tuổi và người lớn 26 tuổi.

Bạn đang đọc: Uốn ván và các điều cần biết về DPT

Uốn ván và các điều cần biết về DPT

Riêng tại Nước Ta, từ năm năm ngoái đến nay, số ca mắc uốn ván vẫn luôn được báo cáo giải trình với hơn 350 ca hằng năm. Với bệnh ho gà, bệnh đang có khunh hướng ngày càng tăng số ca mắc, đặc biệt quan trọng ở trẻ nhỏ

Vắc xin DPT là gì vậy?

DPT là một loại vắc xin phối hợp từ giải độc tố bạch hầu tinh chế, giải độc tố uốn ván tinh chế và huyền dịch vi trùng ho gà vô bào hoặc toàn tế bào đã bất hoạt, được hấp phụ bằng tá chất Aluminium phosphate, chống lại 3 bệnh truyền nhiễm gồm : Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván. Kể từ khi vắc xin DPT được sử dụng trong chương trình TCMR cho trẻ nhỏ, số ca tử trận do các bệnh này đã giảm đáng kể. Đặc biệt, ưu điểm của vắc xin DPT là phòng được 3 bệnh trong 1 mũi tiêm nên hạn chế được số lần tiêm cho trẻ, giúp tiết kiệm ngân sách và chi phí được thời hạn, ngân sách và bảo vệ trẻ sớm trong các năm đầu đời.

Tiêm vắc xin DPT là giải pháp quan trọng giúp ngăn ngừa rủi ro tiềm ẩn nhiễm Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván

Vắc xin DPT phòng bệnh gì?

Theo Báo cáo nhìn nhận so với vắc xin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván hấp phụ ( DPT ), vắc xin DPT phòng 3 bệnh :

a. Bạch hầu:

Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh hoàn toàn có thể Open ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh đa phần là do ngoại độc tố của vi trùng bạch hầu gây ra. Tác nhân gây bệnh là vi trùng Corynebacterium diphtheriae sinh ngoại độc tố gây ra. Người là vật chủ tự nhiên duy nhất của C.diphtheria. Bệnh bạch hầu được lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi trùng bạch hầu. Bệnh còn hoàn toàn có thể lây do tiếp xúc với các vật phẩm có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi trùng bạch hầu. Trên người ở mọi độ tuổi không có miễn dịch từ trước, triệu chứng bạch hầu thường xảy ra sau một thời kỳ ủ bệnh từ 1 đến 5 ngày ( ở mọi độ tuổi ). Bệnh khởi phát với sự tăng trưởng dần của sốt từ thấp đến trung bình và viêm họng xuất tiết nhẹ. Trong các trường hợp nặng, giả mạc dần hình thành trong vòm họng, có màu trắng xám, không đối xứng và dính chặt vào mô bên dưới. Giả mạc hoàn toàn có thể lan rộng vào hốc mũi và thanh quản gây ùn tắc đường thở. Bạch hầu thanh quản hoàn toàn có thể xảy ra mà không có tổn thương họng và là một cấp cứu nội khoa, thường cần mở khí quản. Ngoại độc tố được hấp thu từ các tổn thương niêm mạc ( hoặc da ) hoàn toàn có thể lý giải cho sự nhiễm độc của các cơ quan như cơ tim, thận và hệ thần kinh. Biến chứng và tử trận đa phần là do ảnh hưởng tác động của ngoại độc tố của vi trùng bạch hầu và do giả mạc gây ùn tắc ở đường hô hấp trên, viêm cơ tim và bệnh lý thần kinh ngoại biên và các mô khác. Tỉ lệ tử trận ( CFR ) là 3-23 %. Sau khi mắc bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời. Bệnh bạch hầu có tính mùa, thường tản phát, hoàn toàn có thể tăng trưởng thành dịch nhất là ở trẻ dưới 15 tuổi chưa được gây miễn dịch vừa đủ. Ở hầu hết các nước công nghiệp, bệnh bạch hầu lưu hành địa phương đã biến mất hoặc trở nên cực hiếm nhờ tiêm chủng. Bạch hầu hiếm gặp ở trẻ nhỏ dưới 6 tháng tuổi vì có sự hiện hữu của kháng thể từ người mẹ. Ở các nước đang tăng trưởng, bạch hầu liên tục có tỉ lệ mắc và tử trận đáng kể do tỷ lệ bao trùm tiêm chủng vắc-xin bạch hầu thấp. Ở các nước có bệnh bạch hầu lưu hành, trẻ nhỏ trước tuổi đi học và học viên là các đối tượng người dùng thường bị bạch hầu hô hấp. Tuy nhiên, người ở bất kể độ tuổi nào cũng hoàn toàn có thể nhiễm bệnh bạch hầu nếu không được tiêm phòng.

b. Uốn ván:

Uốn ván là bệnh nhiễm khuẩn do Clostridium tetani – một loại trực khuẩn tạo nha bào xuất hiện khắp nơi – gây ra, vi trùng này hoàn toàn có thể sản xuất một độc tố thần kinh gọi là tetanospasmin. Độc tố chẹn các chất dẫn truyền thần kinh ức chế ở hệ thần kinh TW và gây co cứng cơ nổi bật của uốn ván toàn thể hóa. Bệnh uốn ván hoàn toàn có thể không khi nào được giao dịch thanh toán vì nha bào C.tetani khá phổ cập trong thiên nhiên và môi trường và hoàn toàn có thể nằm trong đường tiêu hóa của người và động vật hoang dã. Uốn ván không lây từ người sang người. Thời kỳ ủ bệnh của uốn ván đổi khác từ 2 ngày đến 2 tháng. Uốn ván thường có bộc lộ cứng hàm và co giật body toàn thân bất thần. Co cứng thanh môn hoàn toàn có thể gây đột tử. Uốn ván sơ sinh khởi đầu xảy ra 3 đến 14 ngày sau sinh, thường là do nhiễm khuẩn cuống rốn. Co cứng body toàn thân ở trẻ sơ sinh thường xảy ra sau triệu chứng không bú được và la khóc nhiều. Tỷ lệ tử trận trong tổng số người được chẩn đoán uốn ván biến hóa từ 10 % đến 70 %, tùy thuộc vào điều trị tích cực, tử trận ở các bệnh nhân cao tuổi nhất và nhỏ tuổi nhất phần đông 100 %. Uốn ván xảy ra ở toàn bộ các nhóm tuổi và tỷ suất chết bệnh hoàn toàn có thể cao ngay cả ở nơi có điều kiện kèm theo điều trị tích cực tân tiến. Uốn ván ở trẻ nhỏ và trẻ nhỏ thường phản ánh độ bao trùm kém của chương trình tiêm chủng vươ
ng quốc so với trẻ nhỏ.

c. Ho gà:

Ho gà do vi trùng Bordetella pertussis gây ra. Vi khuẩn này lây từ người bệnh sang người dễ cảm nhiễm qua các hạt chất tiết. Thời kỳ ủ bệnh giao động từ 6 đến 21 ngày, thường là từ 7 đến 10 ngày. Ho gà mở màn với các triệu chứng nhẹ ở đường hô hấp trên ( quá trình viêm long ), tiến triển đến ho rồi các cơn ho kịch phát ( quy trình tiến độ ho cơn ) với tiếng thở rít vào đặc trưng, tiếp theo thường là nôn ói. Bệnh nhân không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ. Triệu chứng giảm dần qua nhiều tuần đến vài tháng ( quá trình hồi sinh ). Ở trẻ nhỏ, thời hạn ho gà tầm cỡ là 6 đến 10 tuần. Phần lớn các trường hợp ho gà hoàn toàn có thể phân biệt trên lâm sàng xảy ra ở trẻ nhỏ từ 1 đến 5 tuổi. Bệnh nặng và tử trận được báo cáo giải trình hầu hết ở rất nhỏ, chưa có miễn dịch, tức là trong 6 tháng đầu đời, và ở trẻ sinh non. Bệnh ở trẻ nhỏ dưới 6 tháng tuổi hoàn toàn có thể không nổi bật : quy trình tiến độ viêm long ngắn, các bộc lộ sớm hầu hết là nôn ọe, thở ngáp, hoặc ngưng thở ; không có tiếng gà rít ; và tiến trình hồi sinh lê dài. Bệnh ở trẻ lớn và người lớn cũng hoàn toàn có thể có các bộc lộ không nổi bật khi ho không thành cơn hoặc đi kèm với tiếng rít hít vào. Các biến chứng ( viêm phổi, co giật, bệnh lý não ) xảy ra ở 5 % đến 6 % số trường hợp ho gà, hay gặp nhất là ở trẻ

Mở lòng

Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván hoàn toàn có thể khiến trẻ bị suy hô hấp, rối loạn thần kinh và tim ngừng đập nếu không được điều trị kịp thời.

Phác đồ tiêm vắc xin DPT

Vắc xin DPT được sử dụng không tính tiền như một phần trong chương trình tiêm chủng lan rộng ra dành cho trẻ nhỏ từ 2 tháng tuổi trở lên. Để đạt hiệu suất cao tối đa, DPT nên được tiêm lúc trẻ 15 – 18 tháng tuổi ( mũi nhắc lại ) sau khi đã tiêm 3 mũi đầu là vắc xin 5 trong 1 của TCMR ( Combe Five hay SII ), và cách mũi 3 tối thiểu 9 tháng. Theo khuyến nghị của Bộ Y tế, trẻ nên được tiêm phòng vắc xin 5 trong 1 vào các mốc thời hạn 2, 3 và 4 tháng tuổi và đặc biệt quan trọng chú ý quan tâm đến mũi nhắc ( DFT ) của trẻ lúc 15 – 18 tháng tuổi. Theo bác sĩ Bạch Thị Chính – Giám đốc Y khoa Hệ thống tiêm chủng Trẻ em và Người lớn VNVC cho biết : “ Khi trẻ chuẩn bị sẵn sàng vào lớp 1, cha mẹ chú ý quan tâm cần cho trẻ tiêm nhắc lại mũi phòng Bạch hầu – Uốn ván – Ho gà ( trong TCMR ) vì lúc này, miễn dịch so với 3 bệnh mà trẻ đã được tiêm trước đây đã suy giảm. Nếu ở trong một xã hội thu nhỏ như trường học, các bệnh truyền nhiễm như Bạch hầu – Uốn ván – Ho gà hoàn toàn có thể lây lan rất nhanh khi trẻ tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh. Nếu bỏ lỡ các thời gian trên, trẻ nên được đưa đến tiêm phòng càng sớm càng tốt. Tuy nhiên lúc này, trẻ không còn được hưởng chủ trương không lấy phí của chương trình tiêm chủng lan rộng ra.

Tính an toàn và các phản ứng có thể xảy ra sau tiêm vắc xin DPT?

Những phản ứng sau khi tiêm DPT thường nhẹ, thường gặp là :

Sốt: khoảng nửa số trẻ em sau tiêm DPT bị sốt vào buổi tối và có thể hết sau 1 ngày.Đau nhức: có khoảng một nửa số trẻ có thể bị đau, nổi ban, sưng tại chỗ tiêm.Quấy khóc: có thể gặp trên 1% số trẻ, nguyên nhân thường do đau.Những phản ứng nghiêm trọng hơn như: co giật (thường liên quan tới sốt, chiếm tỷ lệ 1/12.500 liều được tiêm) và giảm trương lực cơ (chiếm tỷ lệ 1/1.750 liều được tiêm). Phản ứng quá mẫn thường hiếm gặp.Không có bằng chứng nào cho thấy vắc xin DPT là nguyên nhân gây nên các rối loạn thần kinh nghiêm trọng, ví dụ như viêm não.

Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ) khuyến nghị các nơi có đủ nguồn lực hoàn toàn có thể thực thi 1 liều DPT nhắc lại sau khi đã hoàn thành xong 3 liều đầu. Sự thiết yếu so với liều tiêm nhắc DPT tùy chương trình tiêm chủng của mỗi vương quốc.

Trường hợp nào trẻ không được tiêm vắc xin DPT?

Cũng giống như một số ít vắc xin trong chương trình tiêm chủng lan rộng ra như : Quinvaxem, ComBE Five ; SII tuyệt đối không tiêm vắc xin DPT cho trẻ nếu tiền sử có phản ứng mạnh so với liều tiêm trước hoặc có phản ứng mạnh đối DPT-VGB-Hib, vắc xin viêm gan B, vắc xin Hib như :

Sốt cao trên 39°C kèm co giật.Dấu hiệu não/màng não, tím tái, khó thở trong vòng 2 ngày sau tiêm vắc xin.Co giật có kèm theo sốt hoặc không sốt trong vòng 3 ngày sau tiêm vắc xin.Khóc dai dẳng trên 3 giờ trong vòng 1 ngày sau tiêm vắc xinGiảm trương lực cơ trong vòng 2 ngày sau tiêm vắc xin.Trường hợp có vấn đề liên quan đến thần kinh hoặc bị viêm não sau mũi tiêm trước đó.Hoãn tiêm cho trẻ nếu trẻ đang ốm, sốt hoặc mắc các bệnh cấp tính.

Tại sao phải tiêm 3 mũi: Bạch hầu – Uốn ván – Ho gà cùng lúc và phải tiêm nhắc?

Vắc xin 3 trong 1 trong chương trình tiêm chủng dịch vụ khác vắc xin DPT (chương trình TCMR) như thế nào?

Cùng là vắc xin phòng 3 bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván, nhưng vắc xin Tdap ( Adacel hay Boostrix ) khác hẳn với vắc xin DPT trong chương trình Tiêm chủng lan rộng ra ở thành phần Ho gà. Trong vắc xin DPT chứa thành phần ho gà toàn tế bào ( nghĩa là vắc xin tinh chế từ vi trùng ho gà sau khi được nuôi cấy tăng sinh trong thiên nhiên và môi trường và làm chết bằng nhiệt độ ). Trong khi đó vắc xin 3 trong 1 Adacel và Boostrix chứa thành phần ho gà vô bào ( chỉ chứa thành phần kháng nguyên đặc hiệu sau khi đã vô hiệu các thành phần kháng nguyên không thiết yếu khác của vi trùng ) với nồng độ kháng nguyên ho gà và bạch hầu giảm liều lượng nhưng vẫn bảo vệ hiệu lực hiện hành kháng sinh bảo vệ, được nhìn nhận là lành tính hơn và hạn chế các phản ứng sau tiêm cho trẻ. Chính vì thành phần ho gà vô bào được nhìn nhận là có phản ứng sau tiêm ít hơn cũng như ít sốt hơn nên các bậc cha mẹ có khuynh hướng chọn vắc xin Tdap ( Adacel hay Boostrix ) để tiêm phòng cho con từ 4 tuổi trở lên.

VNVC địa chỉ tiêm chủng an toàn – Bố mẹ an tiêm tiêm chủng trong “mùa dịch”.

Hiện VNVC đang sẵn có các loại vắc xin tích hợp có thành tố chống Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván
ship hàng ba mẹ đưa trẻ đến tiêm. Tuy nhiên đây là một loại vắc xin tiếp tục rơi vào thực trạng khan hiếm nên để bảo vệ luôn có vắc xin, ba mẹ hoàn toàn có thể mua gói vắc xin hoặc đặt trước khi tiêm mũi lẻ vắc xin cho bé tại : http://bit.ly/GOIVACXIN Khách hàng hoàn toàn có thể thuận tiện đặt lịch giữ vắc xin tại VNVC để bảo vệ con yêu sẽ được tiêm đủ mũi vắc xin “ siêu khan hiếm ”. Chỉ cần gọi điện lên hotline 028 7300 6595 hoặc đặt lịch tiêm vắc xin cho trẻ nhỏ và người lớn tại : https://hocdauthau.com/dang-ky-thong-tin-tiem-chung/. Tuyết Huỳnh

0 Shares
Share
Tweet
Pin