Bàn về tứ thơ

Tứ thơ còn gọi là thi tứ, một từ khá quen thuộc với tao nhân mặc khách ngày trước và có lúc đã được dùng để dịch từ inspiration. Từ inspiration còn được dịch là “ cảm hứng ”, “ thi hứng ”, nhưng không trọn vẹn tương ứng với khái niệm tứ thơ ( thi tứ ), một khái niệm rất là hàm súc, đa dạng và phong phú mà nền văn hóa truyền thống Á Đông truyền kiếp của tất cả chúng ta đã đúc rút được . Tứ thơ rất là quan trọng so với người làm thơ. Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng : “ Lao động thơ, trước hết là kiếm tứ, làm thơ khó nhất là tìm tứ ”, “ thường thường người làm thơ gặp phải bí, là bí tứ, chứ không phải bí ý hay bí lời ” ( N.T.H nhấn mạnh vấn đề ). Nhưng tứ là gì, tứ khác ý ở chỗ nào ? Theo Xuân Diệu, ý là “ … tâm lý, khái quát đánh giá và nhận định ”, cái này thì ai cũng hoàn toàn có thể có, không riêng gí nhà thơ. Nhưng “ khi ý “ đầu thai ” thành cảm hứng, tình cảm, ý ấy trở thành tứ, đó là tứ thơ ”, “ ý là chung của mọi người, tứ mới là riêng của mỗi thi sĩ ” ( Trích “ Công việc làm thơ ”, NXB Văn Học, tr. 117-118-120 ). Có thể tăng trưởng đơn cử hơn quan điểm của Xuân Diệu là : Ý hoàn toàn có thể chưa thành tứ, nhưng tứ khi nào cũng có ý cộng thêm xúc cảm, nhạc điệu, hình tượng thơ từ cái nhìn riêng của nhà thơ .

Bằng kinh nghiệm của người làm thơ, Xuân Diệu chỉ nói đến cái ý, cái tứ thơ của toàn bài. Nhà thơ thường lấy cái ý, cái tứ trung tâm mà tỏa ra toàn bài, còn từ (lời) là “cái quan trọng thứ hai”. Thế nhưng người đọc thơ thì bao giờ cũng đi ngược lại với quá trình làm thơ: bắt đầu là từ rồi đến ý và tứ. Vậy là ngược chiều với nhà thơ đi từ đầu đến chân, còn người đọc lại men từ chân lên đầu. Và như vậy, ở mỗi dòng thơ, câu thơ, người đọc có thể lĩnh hội được các ý nhỏ, tứ nhỏ, tiến dần đến ý trung tâm của toàn bài thơ. Có lẽ ai đọc thơ cũng phải theo con đường độc đạo ấy. Có điều trong lộ trình này, ta khám phá ra sự chuyển động từ ý sang tứ, rồi tứ nâng lên thành ý và ý lại triển khai thành tứ mới lạ hơn, đẹp đẽ hơn. Cứ như vậy cho đến khi kết thúc. “ Thơ là hình thái nghệ thuật ngôn từ vận động trong thời gian”, một nhà nghiên cứu đã nói như vậy. Và quả đúng như vậy!

Bàn về tứ thơ

Xin lấy một bài thơ ngắn gọn, bài thơ “ Đợi ’ của nhà thơ Vũ Quần Phương làm vật chứng, để thay cho nhiều dẫn chứng khác. Chỉ là dẫn chứng thôi, chứ không dám bình, vì bài này đã có nhiều người bình rồi . Toàn bài thơ Đợi như sau :

Bạn đang đọc: Bàn về tứ thơ

Anh đứng trên cầu đợi em Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm Ngày xưa đã chảy, nay còn chảy Nước chảy bên lòng, anh đợi em. Anh đứng trên cầu nắng hạ Nắng soi bên ấy, lại bên này Đợi em. Em đến? Em không đến? Nắng tắt, còn anh đứng mãi nơi đây. Anh đứng trên cầu đợi em Đứng một ngày đất lạ thành quen Đứng một đời em quen thành lạ. Nước chảy. . .Kìa em, anh đợi em. Mở đầu bài thơ bằng: Anh đứng trên cầu đợi em Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm Ngày xưa đã chảy, nay còn chảy

Với ba dòng đó, thơ phác họa khung cảnh, nhân vật, nhưng cũng chỉ mới là ý, ai cũng biết và ai cũng hoàn toàn có thể nghĩ được như vậy. Nhưng tiếp theo là : Nước chảy bên lòng, anh đợi em . thì “ tứ ” đã Open : “ Nước chảy bên lòng ”, chứ không phải nước chảy xuôi dòng nữa. Một nỗi niềm, một tâm trạng, một cái nhìn, một sự so sánh nhìn nhận riêng của một người, trong một tâm thế đặc biệt quan trọng ! Nước thì cứ chảy, chảy bên long anh, còn anh cứ đứng đợi . Tứ đó được tiến hành lan rộng ra thêm :

Anh đứng trên cầu nắng hạ Nắng soi bên ấy, lại bên này

Thơ chẳng cần nói nắng nóng như thế nào, cũng chẳng cần nói ánh nắng nóng bức như thế nào. Vì cái tứ ấy cũng chính là cái ý muốn nói : nước chảy một chiều, còn nắng thì đủ cả hai phía cho đến khi tắt, nó cùng là dòng thời hạn thêm vào dòng khoảng trống nước chảy ở khổ thơ trên. “ Cái nắng bên ấy, cái nắng bên này ” cốt để dọn đường cho một tâm trạng do dự, khắc khoải, đăm chiêu bên này, bên nọ trong lòng người đứng đợi : Đợi em. Em đến ? Em không đến ? Và rồi : Nắng tắt, còn anh đứng mãi nơi đây . Lúc này, chờ đón đã mòn mỏi theo thời hạn, lòng nặng trĩu, lời thơ chùng xuống với tứ thơ : còn anh đứng mãi nơi đây .

Đến đây, dường như ý và tứ đã cạn. Thơ dường như phải nghỉ hơi lấy sức, nên đã lặp lại câu mở đầu:

Anh đứng trên cầu đợi em Nhưng lặp lại để tạo đà cho tứ thơ bay lên cao hơn nữa :

Đứng một ngày đất lạ thành quen Đứng một đời em quen thành lạ.

Mới đợi một ngày thì còn yêu, rất yêu “ lạ thành quen ”, nhưng đợi cả đời thì “ quen thành lạ ”. TỨ thơ ấy có gì mới đâu ? Ca dao đã có “ Khi yêu, yêu cả đường đi / Hết yêu, ghét cả tông chi họ hàng ”. Nguyễn Du còn kinh hoàng hơn : “ Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi ” ( Truyện Kiều ). Có chăng cái mới ở Vũ Quần Phương là dẫu có phải đợi chờ mãi cũng không trách móc gì tình nhân, không đến mức đổi tình yêu thành thù hận, mà nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng “ em quen thành lạ ”. Từ “ em ” được đặt ở giữa câu mới yêu thương da diết làm thế nào ! Đến mức có người ngắt câu “ Đứng một đời em ” rồi chuyển luôn cả chủ thể bài thơ “ anh ” thành “ em ”. “ Em đứng trên cầu đợi anh ” và như vậy sẽ trở thành một bài thơ khác mà ý TT lại là sự thủy chung của Em chứ không phải của Anh . Thất vọng, nhưng chưa đến mức vô vọng như tiếng khóc “ Diêu bông, hời ! Ới Diêu bông ! ” trong thơ Hoàng Cầm. Giọng thơ nhẹ nhàng mà da diết trong “ Đứng một đời em quen thành lạ ” chính là chuẩn bị sẵn sàng cho cái kết thúc chưa kết thúc ở một chút ít lé loi, phập phồng kỳ vọng : Nước chảy. .. Kìa em, anh đợi em . Cũng vẫn là ý, nhưng ý ấy chuyển thành một tứ lạ. Một sự quá bất ngờ, một viễn ảnh, một lời mời mọc : Kìa em, anh đợi em. Tứ thơ lan rộng ra đến mức như muốn nói rằng : dù bao nhiêu nước chảy dưới cầu, thời hạn lặng lẽ trôi đi, dù em đã thay đổi chăng nữa, nhưng anh vẫn cứ đợi em, chờ em ! Đến đây bài thơ khép lại vì ý và tứ đã tràn trề không cần thêm ( hay không hề thêm ) một lời nào nữa. Bông hoa thủy chung đã nở tràn trề, viên mãn ! Ý chuyển thành tứ, tứ nâng ý lên, quyện vào nhau để tỏa hương dịu êm mà đằm thắ
m kì khôi . * Qua vật chứng trên, ta cũng thấy : Do xúc cảm và cái nhìn riêng tư với cách miêu tả của nhà thơ, tứ thơ thường là “ tiêu điểm thẩm mỹ và nghệ thuật ” ( artist focus ) của câu thơ, bài thơ. Về hình thức, hoàn toàn có thể nhận ra đó là nơi quy tụ của các giải pháp tu từ : so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, giảm nhẹ, phóng đại. .. Còn ý thì được diễn đạt trực tiếp, “ trần trụi ”, không sắc tố như thế. .. Ý chuyển thành tứ và tứ chuyển thành ý mới, đó là sự quy đổi tính năng trong ngữ cảnh thích hợp, có khi không biểu lộ ở hình thức diễn đạt trực tiếp. Trong một bài thơ, ý là cái khai mào cho tứ phát sinh ( cũng hoàn toàn có thể tứ Open trước ). Đến lượt nó, tứ nâng cao thành ý mới và ý ấy chuyển hóa hoạt động thành tứ mới. .. Ý và tứ cứ hoạt động xoắn xuýt theo hình làn tuy vậy : tuy vậy xúc cảm, tuy vậy nhạc điệu và hình tượng thơ quanh một trục tâm, hướng tới cái đích và làm thành một “ kiến trúc thẩm mỹ và nghệ thuật đầy âm vang ” của ngôn từ. Có thể nhận ra làn tuy vậy ấy ở bất kể đoạn và bài thơ toàn bích nào, chứ không riêng bài này . Nhà thơ năng lực là nhà thơ dồi dào ý, tứ và ưu việt trong chọn lời. Có điều không phải khi nào ý và tứ cũng lộ rõ, hoàn toàn có thể ở mạch nổi ( từ ngữ, cú pháp, hình tượng ) mà nhiều khi nằm ở chỗ không lời, ở mạch chìm, ẩn khuất sâu . Hiện nay, thơ của các nhà thơ trẻ đang rất ưa thích tạo ra chiều sâu đó bằng hình ảnh và ngôn từ mới lạ, bằng các tứ thơ tân kỳ ( đôi lúc kỳ quái ) để gây ấn tượng. Cũng hoàn toàn có thể đó là một cái mốt thời thượng của 1 số ít người ưa chạy theo mốt mới. Và cũng hoàn toàn có thể là khát khao tìm cái mới, khát khao giải phóng mình khỏi các ràng buộc. Thơ phải mới, phải lạ ! Lạ thì cũng lạ, nhưng nếu bài thơ không hoạt động thì giống như cái xác chữ không hồn, yểu mệnh mà thôi .

Vì thế, dù mới, dù lạ đến đâu thì trong thơ cũng rất cần sự vận động và chuyển hóa tự nhiên giữa ý và tứ. Sự vận động chuyển hóa ấy là nguồn mạch nuôi sống thơ, là hồn thơ khiến thơ trở thành một “sinh thể” nhạy cảm, biến hóa khôn lường, chứ không chỉ là bông hoa khoe sắc, hay một rô bốt biết nói năng, khóc cười theo một lập trình định sẵn.

Cái diệu kỳ, xinh xắn của thơ chính là ở chỗ luôn hoạt động theo một hướng nhằm mục đích một cái đích nhất định : ý và tứ TT bài thơ. Nói như vậy, tức là không tính đến các ý niệm coi thơ là “ phi văn bản ” và nhiều thứ “ phi ” khác .

PGS.TS NGUYỄN THÁI HÒA

0 Shares
Share
Tweet
Pin