Cá heo – Wikipedia tiếng Việt

Cá heo là động vật có vú sống ở đại dương và sông nước có quan hệ mật thiết với cá voi. Có gần 40 loài cá heo thuộc 17 chi sinh sống ở các đại dương, số ít còn lại sinh sống tại một số con sông trên thế giới (sông Dương Tử, sông Amazon, sông Ấn, sông Hằng,…). Kích thước của cá heo có thể từ 1,2 m (4 ft) và 40 kg (90 lb) (Cá heo Maui), cho tới 9,5 m (30 ft) và 10 tấn (9,8 tấn Anh; 11 tấn Mỹ) (Cá heo đen lớn hay Cá voi sát thủ). Cá heo có trên toàn thế giới và thường cư ngụ ở các biển nông của thềm lục địa. Cá heo là loài ăn thịt, chủ yếu là ăn cá và mực. Họ cá voi đại dương Delphinidae là họ lớn nhất trong bộ cá heo và cũng là họ xuất hiện muộn nhất: khoảng 10 triệu năm trước đây, trong thế Trung Tân. Cá heo là một trong số các động vật thông minh và được biết đến nhiều trong văn hóa loài người nhờ hình thức thân thiện và thái độ tinh nghịch và hồ hởi với con người.

Phân loại và phân bổ

Cá heo đại dương

Cá heo sông

Bạn đang đọc: Cá heo – Wikipedia tiếng Việt

Cá heo lai

Năm 1933, ba con cá heo lạ Open ở bờ biển Ireland. Chúng được xem là các thành viên lai giữa cá heo Risso và cá heo mũi chai ( Bottlenose ) Việc lai tạo này sau đó được triển khai lại với các cá heo được nuôi trong bể và cũng tạo ra con lai. Trong bể nuôi, người ta lai giữa cá heo mũi chai và cá heo răng cứng ( Rough-toothed ) và cũng tạo ra con lai. A Common-Bottlenose hybrid lives at SeaWorld California. Các loài lai khác cũng Open trong bể nuôi trên toàn thế giới hoặc được xác nhận là có trên biển như cá heo Mũi chai với cá heo đốm Đại tây dương. Loài lai nổi tiếng nhất có tên gọi Wolphin lai giữa Cá heo ngụy trinh sát và cá heo Mũi chai. Wolphin có năng lực sinh sản. Lúc này có một cặp Wolphin tại Công viên hải sinh ở Hawaii ; con tiên phong được sinh ra năm 1985 do cá bố là Cá heo ngụy trinh sát và mẹ là Mũi chai. Người ta cũng thấy Wolphins tự do trên đại dương.

Tiến hóa và giải phẫu

The Anatomy of a Dolphin showing its skeleton, major organs, tail, and body toàn thân shape .

Cá heo, cũng như cá voi, là hậu duệ của động vật có vú trên cạn, và tất có thể thuộc ngành Artiodactyl. Tổ tiên của cá heo hiện đại ngày này có thể đã xuống nước khoảng 50 triệu năm trước ở kỷ Eocene.

Cá heo – Wikipedia tiếng Việt

Xương cá heo văn minh có hai xương chậu nhỏ hình cây gậy và được cho hai chân sau đã bị teo đi. Tháng 10 năm 2006, một cá heo Mũi chai lạ bị bắt ở Nhật Bản ; con cá này có 2 vây nhỏ ở hai bên khe bộ phận sinh dục và được các nhà khoa học xác lập là chân sau tăng trưởng hình thành.

Giải phẫu học

Cá heo có thân hình thoi suôn tối ưu cho bơi với vận tốc cao. Vây đuôi được sử dụng để tạo sức đẩy còn vây mang và hàng loạt đuôi để kiểm soát và điều chỉnh hướng bơi. Vây sống lưng so với các loài có vây sống lưng dùng để không thay đổi khung hình khi bơi .Dù mỗi loài có khác nhau, đặc thù chung ở hầu hết cá heo là các sắc màu xám với bụng có màu nhạt hơn. Trên da cá heo thường có các đốm với màu tương phản và sắc độ khác ..

Đầu cá heo có bộ phận phát sóng rada sinh học ở trán. Nhiều loài có hàm phát triển dài tạo thành một cái mỏ rõ rệt. Một số loài như loài Mũi chai có miệng hình cánh cung như một nụ cười cố định. Một vài loài khác có thể có tới 250 răng. Cá heo thở bằng một lỗ ở trên đầu. Não cá heo phát triển to và phức tạp và có cấu trúc khác hẳn hầu hết động vật có vú trên cạn.

Khác hầu hết động vật hoang dã có vú khác, cá heo không có lông mao. Trừ một chút ít lông ở mỏ lúc sinh ra và mất đi nhanh gọn sau đó. Một ngoại lệ duy nhất là loài cá heo sông Boto, trên mỏ chúng mọc các sợi lông nhỏ rất dai dẳng. Cơ quan sinh sản của cá heo được đặt ở phần dưới của khung hình. Cá heo đực có 2 khe, một khe chứa dương vật và một khe chứa hậu môn. Cá heo cái chỉ có một khe sinh dục chứa cả âm vật và hậu môn. Khe chứa vú được đặt ở hai bên khe chứa bộ phận sinh dục .

Nghiên cứu mới đây tại Quỹ động vật có vú hải dương quốc gia Mĩ cho thấy cá heo là loài động vật duy nhất khác loài người mà cũng có biểu hiện tự nhiên của Bệnh béo phì loại 2 và đây là cơ sở để nghiên cứu kỹ hơn bệnh này cũng như phương hướng điều trị cho cả người và cá heo.

Hầu hết cá heo đều có nhãn lực tinh tường cả trong môi và ngoài môi trường nước và có thể cảm nhận các tần số cao gấp 10 lần tần số người có thể nghe được. Mặc dù cá heo có lỗ tai nhỏ ở hai bên đầu, người ta cho rằng trong môi trường nước, cá nghe bằng hàm dưới và dẫn âm thanh tới tai giữa qua các khe hở chứa mở trong xương hàm. Nghe cũng được dùng để phát sóng rada sinh học, một khả năng tất cả các loài cá heo đều có. Người ta cho rằng răng cá heo được dùng như cơ quan thụ cảm, chúng nhận các âm thanh phát tới và chỉ chính xác vị trí của đối tượng. Xúc giác của cá heo cũng rất phát triển, với đầu dây thần kinh phân bổ dày đặc trên da, nhất là ở mũi, vây ngực và vùng sinh dục. Tuy nhiên cá heo không có các tế bào thần kinh thụ cảm mùi và vì vậy chúng được tin là không có khứu giác. Cá heo cũng có vị giác và thể hiện thích một số thức ăn cá nhất định. Hầu hết thời gian của cá heo là dưới mặt nước, cảm nhận vị của nước có thể giúp cá heo ngửi theo cách là vị nước có thể cho cá biết sự hiện diện của các vật thể ngoài miệng mình.

Dù cá heo không có lông, chúng vẫn có nang lông giúp thực thi một số tính năng xúc giác. [ 14 ] Người ta tin rằng, các sợi lông nhỏ trên mỏ của loài cá heo sông Boto hoạt động giải trí như một mạng lưới hệ thống xúc giác để bù đắp cho thị giác kém của loài này. [ 15 ]

Conservation, research and news:

Photos:

0 Shares
Share
Tweet
Pin