PHCN Online

Cập nhật lần cuối vào 18/12/2021

Đau là nguyên nhân chính khiến bệnh nhân (BN) đi khám bệnh. Theo thống kê ở Hoa Kỳ, 9/10 người Mỹ đến từ 18 tuổi trở lên ít nhất bị đau một lần/tháng, và 42% bị đau hàng ngày. Chính vì vậy, điều trị đau luôn là mối quan tâm hàng đầu của người thầy thuốc.

Bạn đang xem: Thang điểm vas chính là gì

Để chữa trị đau hiệu quả, điều tiên quyết là phải hiểu được sự phức tạp của dấu hiệu đau , nắm đã được phương pháp lượng giá đau. Bài viết đề cập đến định nghĩa đau , và mô tả phương pháp lượng giá đau và một số công cụ lượng giá đau thông dụng.

Bạn đang đọc: PHCN Online

ĐAU là gì vậy?

Đau chính là một hiện tượng chủ quan đơn thuần. Mặc dù đã được tìm hiểu từ lâu, Tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm về đau mà mọi người chưa hiểu tường tận. Người ta cho thấy rằng cảm nhận đau sẽ khác nhau ỏ những người khác nhau: cái đau không chịu đựng nổi với người này có thể chỉ chính là cảm thấy không thoải mái ở người khác Trên cùng một người, đau cũng thay đổi theo thời gian, chưa gian, những kích thích bên ngoài.. Đau , và hành vi dau cũng khác nhau theo trình độ, truyền thống văn hóa, giới tính, chủng tộc, tôn giáo…

Hiệp hội Nghiên cứu Đau Quốc tế (IASP) định nghĩa đau chính là “một kinh nghiệm cảm thấy , và cảm xúc khó chịu“. Định nghĩa này giải thích rằng đau là một hiện tượng kết hợp vừa cảm giác, cảm xúc , và nhận thức, về khái niệm, đau có thể được xem xét chính là một cấu trúc có ba tầng: một thành phần cảm giác-phân biệt (Thí dụ như vị trí, cường độ, tính chất), một thành phần động cơ-tình cảm (vi dụ như trầm cảm, lo lắng), , một thành phần nhận thức-đánh giá (Thí dụ như những suy nghĩ về nguyên nhân , ý nghĩa của đau).

Trên thực tiễn lâm sàng, khái niệm đau như trên giúp cho người thầy thuốc chú ý vào nhiều yếu tố góp phần tạo nên trải nghiệm đau chung cùa BN. Mặc dù đau thường được xem chính là một dấu chỉ điểm báo hiệu tổn thương mô, chưa phải bao giờ đau cũng tương ứng với tổn thương nguyên nhân. Sự cảm nhận đau đã được trợ giúp bởi một hệ thống tế bào thần kinh cảm thấy [cảm nhận đau (nociceptive)], , và những đường thần kinh hướng tâm đáp ứng đặc hiệu với kích thích đau có thể gây tổn thương mô. Tuy nhiên, cảm nhận đau này có thể bị tác động bởi những yếu tố tâm lý hoặc sinh bệnh lý chưa độc hại (chẳng hạn như sự xử lý bất thường của hệ thần kinh). Với người thầy thuốc, lượng giá đau quả là một điều khó khăn, bởi vì tính chất chủ quan , chưa có những dấu ấn sinh học chuyên biệt của nó (không đơn giản như đo huyết áp hoặc đường huyết). Tuy nhiên, với người bệnh, đau chính là khách quan , và những chuyên gia về đau đều đồng ý rằng tiếp cận lâm sàng đúng đắn nhất chính là cho rằng bệnh nhân đang nói cảm nghiệm thật của họ, ngay cả khi không chứng minh được nguyên nhân. Chấp nhận chứng đau của người bệnh chưa hẳn dẫn đến điều trị đặc hiệu, Tuy nhiên là một điểm khởi đầu hữu ích để sự giao tiếp giữa người thầy thuốc , và BN tốt nhất hơn.

LƯỢNG GIÁ ĐAU

Đánh giá BN đau luôn chính là một thách đố với người thấy thuốc lâm sàng. Bởi vì tính chủ quan của việc kể lại cơn đau, trên lâm sàng chưa phải lúc nào cũng có thể tạo ra cơn đau giống về tính chất , cường độ như cảm thấy nguyên thủy: không phải lúc nào BN cũng kể lại chính xác cơn đau phương pháp đó một tháng, hoặc thậm chí một tuần, , và chưa có phương pháp nào giải thích những thành phần cảm giác , và xúc cảm hoặc sự đóng góp của những yếu tố tâm lý và văn hóa đến cảm nghiệm đau. Dù vậy, lượng giá đau cần bao gồm những thông tin có thể đo lường và tái tạo đã được nhằm xác định nguốn gốc đau, hướng người thẩy thuốc đến những phương pháp chữa thích hợp, và , trợ giúp việc thiết lập những mục tiêu có thể đạt dược.

Hỏi bệnh sử:

Là phần hết sức quan trọng trong lượng giá đau.

Xem thêm: GFA chính là gì vậy? Tổng diện tích sàn xây dựng chính là gì vậy?

Một phương pháp dơn giản nhằm hạn chế bỏ sót thông tin là dùng mẹo giúp trí nhớ gồm những chữ cái OPQRST.

Xem bài viết OPQRST: Để dễ nhớ khi hỏi về đau

những thang điểm đo cường độ đau

Xác định cường độ đau là một thành phần thiết yếu của lượng giá đau ban đầu , theo dõi tiếp theo. Có nhiều thang điểm đau có giá trị giúp đo cường độ đau.

Những thang điểm thường dùng gồm Thang điểm Lời (Verbal Rating Scale: VRS), Thang điểm Số (Numeric Rating Scale: NRS), Thang điểm Nhìn (Visual Analog Scale: VAS, đúng hơn chính là thang điểm liên tục), , Thang điểm Hình.

Thang điểm Lời (VRS)

là phương pháp đo đơn giản nhất, chứa ít thông tin nhất. Thang điểm này có thể ít tin cậy hơn những thang điểm khác, bởi vì những tính từ chưa nhất thiết có nghĩa giống nhau với những người khác nhau.

Thang điểm Số (NRS)

Thang điểm này đơn giản khi dùng ở trên lâm sàng , là một trong những phương pháp thường dùng nhất để định lượng đau. BN chỉ cường độ đau của họ ở trên một thang điểm từ 0 đến 10: 0 chứng tỏ chưa đau , 10 là đau nhiều nhất có thể tưởng tượng được. Thang điểm này nhạy hơn so với Thang điểm Lời.

Thang điểm số dễ dùng hơn với những người giảm nguy cơ do bệnh hoặc người có trình độ học vấn thấp. khuyết điểm của nó là đánh mất một ít thông tin, bởi vì nhiều người có thể phân biệt hơn 10 mức đau. Một khuyết điểm khác, nó là thang điểm thứ bậc hơn chính là thang điểm khoảng phương pháp thật sự, do vậy không có mối quan hệ cố định giữa những điểm, cho dù chúng đã được chia khoảng phương pháp đều nhau. Điều này có nghĩa là đau điểm 4 không phải nặng gấp hai lần đau điểm 2. Phân tích thống kê những con số như vậy chỉ khu trú trong những test X2 (tương đối chưa nhạy), do dó sự khác biệt có ý nghĩa thống kê có thể không được phát hiện trừ phi có một sự khác biệt lớn giữa những nhóm, hay kích thước mẫu lớn.

Thang điểm Nhìn (liên tục) (VAS)

Thang điểm này chính là một thang điểm giá trị khác đo cường độ đau và tương đối giống Thang điểm số. Nó gồm một đường thẳng dài 100 mm với hai đầu: một đầu chính là chưa đau và đầu kia chính là đau chưa chịu đựng nổi. Người bệnh đánh dấu lên đường thẳng ở điểm mô tả đúng số 1 cường độ đau của họ. Độ dài của đường thẳng đến điểm đánh dấu của BN được đo , và ghi lại bằng mm. Thuận lợi của thang điểm này là chưa giới hạn đau thành 10 mức riêng biệt về cường độ, cho phép đo lường chi tiết hơn. Bất lợi là thang điểm này đôi khi khó hiểu với một số người bệnh.

Nếu áp dụng đúng, Thang điểm Nhìn chính là một thang tỉ lệ thích hợp: nghĩa là hai đầu của nó là gốc , và số điểm gấp đôi phản ánh chính xác mức đau gấp đôi. Do đó, có thể dùng những test t (nhạy cảm hơn) và phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) để phân tích, , và có thể xác định sự khác biệt có ý nghĩa với kích thước mẫu tương đối nhỏ hay là sự khác biệt nhỏ giữa những nhóm.

XEM MẪU PHIẾU VÀ LƯỢNG GIÁ THANG ĐIỂM NHÌN VAS

Thang điểm Hình (Thang điểm Khuôn mặt)

Xem thêm: Rcb chính là gì vậy? Phân biệt RCB, MCB, MCCB, RCBO, ELCB | Cơ Điện Delta

biểu diễn những khuôn mặt khác nhau do đau. Thang điểm này đôi khi đã được dùng với BN chính là trẻ em, những người kém nhận thức hoặc bất đồng ngôn ngữ.

những công cụ lượng giá đau tổng hợp

Đánh giá cường độ đau chỉ xét đến một khía cạnh đơn giản của cảm nghiệm đau. Nhiều tác giả đã đưa ra những dụng cụ chuyên biệt nhằm lượng giá tổng hợp cảm nhận đau của bệnh nhân cũng như mức độ ảnh hưởng cùa đau lên cuộc sống của họ.

Bảng câu hỏi Đau McGill (The McGill Pain Questionnaire = MPQ) được Melzack phát triển đến từ đánh giá 3 thành phần riêng biệt của cảm nghiệm đau của người bệnh (cảm giác; cảm xúc- tình cảm; , và lượng giá-nhận thức).

Đây là một trong những công cụ đo lường đau được thử nghiệm rộng rãi số 1 , đã trở thành một “tiêu chuẩn vàng” cho những công cụ khác. BN đã được giới thiệu 80 tính đến từ theo nhóm, , và BN phải chọn một từ trong mỗi nhóm hợp lý số 1 với đau của họ. MPQ mất khoảng 15-20 phút để hoàn thành, , do đó gây phiền hà cho BN nhiều hơn Thang điểm Nhìn , Số.

Vì sự phức tạp này mà tác giả sau này đã phát triển công cụ dưới dạng rút gọn (MPQ-Short Form), bao gồm 15 tính đến từ được chọn mà BN ghi điểm lên một thang điểm 4 mức (điểm);

mac-gillThẻ Ghi nhớ Lượng giá Đau (The Memorial Pain Assessement Card) là một dụng cụ được phát triển để lượng glá tổng hợp đau nhanh ở những BN ung thư, dùng 3 thang điểm nhìn để lượng giá đau, sự giảm đau , và tâm trạng , bao gồm một tập hợp những tính đến từ cường độ đau. Thuận lợi của công cụ đo lường này là ít mất thời gian , và kết quả tương ứng với những bản lượng giá khác dài hơn. Thẻ có thể được xếp làm tư trong túi áo của người thầy thuốc , mỗi thang điểm đươc trình bày riêng lẻ cho người bệnh.Bảng kiểm Đau rút gọn (The Brief Pain Inventory (BFI) chính là một công cụ lượng giá đau tổng hợp mà giá trị và độ tin cậy của nó được triệu chứng minh ở BN ung thư, AIDS và viêm khớp. Phải mất khoảng 5-15 phút để hoàn tất bảng kiểm này, bao gồm 11 thang điểm số đánh giá cường độ đau, cũng như ảnh hưởng của đau lên hoat động chung, tâm trạng, khả năng đi lại, thực hiện việc, quan hệ, ngủ và sự thoải mái. Không như MPQ hay thẻ Ghi nhớ Lượng giá Đau, BPI còn cung cấp thông tin vế tính trạng chức năng của BN. Tái đánh giá đau sau khi chữa có thể nhận thấy cải thiện ở thang điểm cảm giác hoặc tâm trạng Tuy nhiên BN có thể vẫn báo cáo không có cải thiện trong họat động thể chất. Một thang điểm đồng thời đánh giá cả chức năng thì đầy đủ hơn trong việc đánh giá hiệu quả chữa đau mạn tính. BPI chính là một lựa chọn tốt để đo lường tổng hơp đau ở những BN có bệnh tiến triển.

Đánh giá chức năng là một thông số hết sức quan trọng trong lượng giá đau toàn bộ. Lượng giá chức năng có thể bao gồm những giới hạn tầm vận động khớp, và sinh họat hàng ngày (ADL), tư thế, dáng đi, hoặc thăng bằng. Mặc dù BPI cung cấp một số thông tin về tác động của đau lên chức năng, rất khó áp dụng những dụng cụ chung để đánh giá chức năng, một phần bởi vì những loại đau khác nhau ảnh hưởng chức năng một phương pháp khác nhau. Do đó, những công cụ đo lường đã được phát triển riêng biệt cho những bệnh lý lý do khác nhau (Bảng).

Chất lượng cuộc sống và những thay đổi tâm lý như trầm cảm cũng có thể quan trọng trong lượng giá tổng thể BN đau , có thể cần thiết trong những tình huống điều tra đặc biệt.

Bảng. Một số bảng câu hỏi tự đánh giá chức năng cho những bệnh lý đau khác nhau

KẾT LUẬN

Lượng giá đau đóng một vai trò then chốt trong quy trình chăm sóc BN đau, cho phép đánh giá mức độ đau, ảnh hưởng của nó đến tâm-sinh lý , thể chất của người bệnh để từ đó giúp người thầy thuốc đề ra kế hoạch chăm sóc chi tiết. Bởi vì đau là một biểu hiện phức tạp, và đa chiều do đó công tác hỏi bệnh chi tiết, chú ý đặc biệt dến mô tả cùa người bệnh về đau của họ là bước quan trọng đầu tiên để điều trị đau hiệu quả. Khám lâm sàng cũng quan trọng, Tuy nhiên trong trường hợp đau mạn tính, nguyên nhân thực thể chưa luôn luôn rõ rệt , và xác định được.

Tham khảo thêm: First Name là Tên hay Họ trong Tiếng Anh

(Trích từ bài Lượng giá Đau, tác giả đã đăng ở Thời sự Y học tháng 12/2005, số 1)

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin