Quốc gia Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Bài này viết về một chính thể từng sống sót trong lịch sử dân tộc mang tên ” Quốc gia Việt Nam “. Đối với quốc gia ( nhà nước ) Việt Nam, xem Việt Nam ( khuynh hướng ). Đối với các quốc hiệu Việt Nam, xem Quốc hiệu Việt Nam

Quốc gia Việt Nam (chữ Nôm: 國家越南; tiếng Pháp: État du Viêt Nam) chính là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa năm 1948 đến 1955. Thủ đô đặt tại Sài Gòn, nhưng quốc trưởng Bảo Đại lại sống , thực hiện việc tại Đà Lạt.

Quốc gia Việt Nam đã được xây dựng theo một thỏa thuận hợp tác năm 1949 giữa Bảo Đại ( cựu hoàng của nhà Nguyễn ) , và Tổng thống Pháp. Về mặt pháp lý, có quan điểm cho rằng bản thỏa thuận hợp tác này bị xem chính là phạm pháp, do Bảo Đại đã thoái vị đến từ ngày 25/8/1945 , chỉ còn là một công dân thông thường nên ông ta không có tư cách pháp lý để thay mặt đất nước ký thỏa thuận hợp tác với Pháp ( đại diện thay mặt hợp pháp của nước Việt Nam khi đó là nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm quản trị , đang triển khai kháng chiến chống Pháp ). Việc thành lập Quốc gia Việt Nam được coi như một giải pháp của thực dân Pháp, nhằm mục tiêu xây dựng chính phủ nước nhà bù nhìn để hợp thức hóa việc xâm lược Việt Nam. [ 2 ] Vì việc thỏa hiệp với Pháp, Bảo Đại đã bị tòa án nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phán quyết phản quốc đến từ năm 1948. [ 3 ]

Về hình thức, quốc gia này gần như chính là một nước quân chủ chuyên chế do không có Hiến pháp , Quốc hội với Quốc trưởng chính là cựu hoàng Bảo Đại (tương tự nhà nước Lào và Campuchia đã được Pháp công nhận ngay sau đó). Trong thực tế thì quyền cai trị vẫn thuộc về Pháp, với Cao ủy Pháp kiểm soát tài chính, thương mại, quân sự , chính sách đối ngoại của Quốc gia Việt Nam.[4]

Bạn đang đọc: Quốc gia Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Quốc gia Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Tháng 6/1954, sau thất bại ở trận Điện Biên Phủ, Pháp rút quân khỏi Việt Nam , ký tắt một hiệp ước dự tính trao trả độc lập cho Quốc gia Việt Nam, [ 5 ] nhưng với việc Hiệp định Geneve diễn tiến quá nhanh , và đã được ký chính thức giữa Pháp , và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản hiệp ước ký tắt của Quốc gia Việt Nam đã chưa khi nào được triển khai xong. [ 6 ] Có quan điểm cho rằng chính phủ nước nhà Pháp chỉ coi Quốc gia Việt Nam là một dụng cụ ship hàng cho họ, nên Pháp đã đàm phán , và ký Hiệp định Geneve với chính phủ nước nhà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà không cần tìm hiểu thêm ý kiến Quốc gia Việt Nam. [ 3 ]Từ năm 1954, theo thỏa thuận hợp tác của Hiệp định Genève, chính quyền sở tại và các lực lượng quân sự chiến lược của Liên Hiệp Pháp ( gồm có Quốc gia Việt Nam ) theo quân đội Pháp tập trung vào miền Nam Việt Nam. Sau một cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào năm 1955 để phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Quốc trưởng. Sau đó Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tổ chức triển khai bầu Quốc hội cho Quốc gia Việt Nam. Quốc hội này đã phát hành Hiến pháp, đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa .

Lịch sử

Bối cảnh chính trị

Cuối năm 1946, sau khi đàm phán giữa chính phủ Pháp với chính phủ Hồ Chí Minh thất bại, chiến tranh Đông Dương bùng nổ. Người Pháp đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của Việt Nam, mà lực lượng mạnh số 1 là Việt Minh do lãnh tụ Đảng cộng sản Đông Dương Hồ Chí Minh lãnh đạo, khi đó đã lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc hành quân Léa năm 1947 với mục tiêu chính truy bắt các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thất bại. Chính quyền Pháp chưa đạt được mục tiêu cũng như chưa đủ lực để tiếp tục tấn công, đồng thời chịu áp lực của dư luận quốc tế đòi chấm dứt chiến tranh , trao trả độc lập cho nhân dân Đông Dương. Pháp buộc phải tìm một biện pháp chính trị phù hợp với lợi ích của Pháp và chiến lược “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản” của khối các nước tư bản phương Tây trong đó có Pháp[7].

Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý rằng Pháp sẽ trợ hỗ trợ ông về nước nắm quyền, hình thành nên “giải pháp Bảo Đại”. Có ý kiến cho rằng việc này nhằm chống lại cuộc chiến giành độc lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[8], cũng có ý kiến cho rằng giải pháp Bảo Đại đã được đưa ra nhằm phản ứng với phong trào giải phóng dân tộc tại các thuộc địa , phong trào cộng sản chống chủ nghĩa thực dân tại Đông Dương[9]. Còn bản thân Bảo Đại sau này nhận xét rằng “Cái đã được gọi chính là giải pháp Bảo Đại hóa ra là biện pháp của người Pháp.”[10]

Theo cơ quan tình báo Pháp thì chính Bảo Đại đã yêu cầu họ hỗ trợ cho đỡ sau khi đã tiêu pha sạch tiền bạc khi ở Hồng Kông. Thấy Bảo Đại chịu nhận tiền, các phái viên Pháp tiếp tục trợ hỗ trợ tài chính cho ông, cứ mỗi tháng Pháp lại cấp cho Bảo Đại 5.000 đôla Hongkong. Bảo Đại trở lại cuộc sống xa hoa, tiêu xài phung phí. Cousseau, người phụ trách cấp tiền, nói với nhà báo Lucien Bodard: “Tôi tin sắp thành công đến nơi vì Bảo Đại rất nhiều cần tiền. Đó là một ông vua tầm thường, bị phế truất, chưa có tiền tiêu, chưa có hoài bão gì. Ông ta đang trong cảnh gần như khốn cùng. Thực tế đó là một công việc không dễ dàng chút nào. Tôi đã đem đến hàng triệu bạc, mà vẫn chưa đủ […]. Trở lại với cuộc sống ăn chơi xả láng, Bảo Đại càng bị lôi cuốn…”[11]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nhận xét “…cố vấn Vĩnh Thụy vốn rất nhu nhược, không vượt qua được sự túng thiếu về tài chính và các cạm bẫy của mật thám Pháp , và các thành phần thân Pháp nên ông đã bị đẩy vào cái thế phải trở lại thực hiện bù nhìn cho thực dân Pháp, phản bội lại chính nghĩa của quốc gia, chống lại kháng chiến giải phóng dân tộc…“.[12]

Mỹ ủng hộ nguyện vọng độc lập dân tộc tại Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, nhưng với điều kiện lãnh đạo của các nhà nước mới “không phải là người cộng sản“, họ đặc biệt ủng hộ việc thành lập các “nhà nước phi cộng sản” ổn định trong khu vực tiếp giáp Trung Quốc. Theo thuyết Domino, Mỹ hỗ trợ các quốc gia đồng minh tại Đông Nam Á vì không muốn “lực lượng cộng sản muốn thống trị châu Á dưới chiêu bài dân tộc” [13]. Bằng phương thức viện trợ, Mỹ ép Pháp phải nhượng bộ trước phong trào chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Chính sách của Mỹ chính là hỗ trợ người Pháp chiến thắng trong cuộc chiến chống Việt Minh, sau đó cũng sẽ ép người Pháp rút lui khỏi Đông Dương[14]. Đáp lại, phía Pháp nhận định là Mỹ quá ngây thơ khi tin rằng Pháp sẽ chịu rời bỏ thuộc địa của họ, và một người Pháp đã nói thẳng chính là “các người Mỹ ưa lo chuyện người khác, ngây thơ vô phương cứu chữa, tin tưởng rằng khi quân đội Pháp rút lui, mọi người cũng sẽ thấy nền độc lập của người Việt xuất hiện” [15].

Người Pháp chấp nhận một lộ trình trao quyền tự quyết cho chính phủ bản xứ với điều kiện người lãnh đạo mà Pháp đồng ý thỏa hiệp “không phải là cộng sản” (hay nói cách khác, chính phủ này bảo đảm duy trì các lợi ích của Pháp tại Đông Dương). Theo sử gia William Duiker, khẩu hiệu “chống cộng sản” của Pháp thực chất là để xây dựng một chính quyền bản xứ người Việt làm đối trọng với Việt Minh để giảm sức ép về kinh tế – quân sự cho Pháp, bảo đảm lợi ích của Pháp cũng như thuyết phục Mỹ viện trợ để Pháp có thể tiếp tục đứng chân tại Đông Dương[16]. Ban đầu, chính Pháp đã đàm phán với Việt Minh và công nhận Việt Nam chính là quốc gia tự trị trong Liên hiệp Pháp chỉ bằng Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946 và Tạm ước Việt – Pháp. Nhưng thực sự thì ngay từ đầu, người Pháp cũng chưa có ý tôn trọng lâu dài các Hiệp định này, Pháp chỉ muốn tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa như trước kia. Tướng Leclerc, Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương khi đề nghị tiếp tục đàm phán đã bị Thống chế Charles de Gaulle trách mắng: “Nếu tôi mà đồng ý mấy thứ nhảm nhí này thì đế quốc Pháp đã tiêu vong lâu rồi. Hãy đọc thật kỹ câu chữ trong tuyên bố tháng 3 của Pháp về Đông dương”.[17] Khi chiến tranh bùng nổ, chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” thất bại thì Pháp mới sử dụng khẩu hiệu “chống cộng sản”, dù chính họ đã từng chấp nhận Việt Minh chưa lâu trước đó.

Thành lập

Đầu năm 1947, D’Argenlieu bị triệu hồi về nước do bị người Việt Nam , các đảng phái cánh tả Pháp căm ghét. Trước áp lực của các đảng phái cánh tả Pháp như Đảng Cộng sản Pháp , và Đảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Ramadier – một đại biểu Xã hội chủ nghĩa, thông báo rằng chính phủ của ông ủng hộ nền độc lập và thống số 1 cho Việt Nam: “Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] liên minh của ba nước An Nam, nếu người dân An Nam mong muốn nó” và Pháp sẵn sàng đàm phán hòa giải với các đại diện chân chính của Việt Nam[18].

Ngay sau đó, Mặt trận Thống số 1 Quốc gia Liên hiệp quyết định hành động cũng sẽ ủng hộ Bảo Đại đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam. Tháng 5/1947, Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp cử phái đoàn đến Hồng Kông gặp Bảo Đại để thuyết phục ông này xây dựng một nhà nước Trung ương và đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam [ 19 ]. Sau đó, Pháp cử đại diện thay mặt gặp Bảo Đại yêu cầu về việc đàm phán về nền độc lập của Việt Nam , việc xây dựng một chính phủ nước nhà Việt Nam độc lập. Bảo Đại được Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp gồm có các lực lượng chính trị Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân Đảng , Việt Nam Quốc dân Đảng hậu thuẫn [ 20 ]. Đây chính là các tổ chức triển khai chính trị hoặc tôn giáo từng tham gia chính phủ nước nhà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay là hợp tác với Việt Minh chống Pháp nhưng do xung đột với Việt Minh nên chuyển sang ủng hộ Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam . Ngày 7/12/1947, tại cuộc họp ở trên tàu chiến Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại , Pháp đàm phán rồi ký kết Hiệp ước Sơ bộ Vịnh Hạ Long. Hiệp ước biểu lộ sự đồng thuận của hai bên về việc thành lập Quốc gia Việt Nam ở trên cơ sở nguyên tắc độc lập và thống nhất của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp. Dù vậy nghĩa đúng chuẩn của từ ” độc lập “, quyền hạn đơn cử của chính phủ nước nhà mới cũng như vai trò chính phủ nước nhà này trong đại chiến Việt – Pháp đang tiếp nối không đã được xác lập rõ [ 21 ] .nhà nước hoạt động giải trí dưới một hiến chương lâm thời, chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm Quốc kỳ và bản ” Thanh niên Hành Khúc ” với lời nhạc mới làm Quốc ca [ 22 ]. Quốc gia Việt Nam cũng sẽ có một quân đội riêng Tuy vậy phải ” chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ bất kỳ phần nào của Liên hiệp Pháp ” [ 20 ]. Sự độc lập chính trị của nhà nước Quốc gia Việt Nam được pháp luật trong Hiệp ước Vịnh Hạ Long quá nhỏ nên hiệp ước này bị Ngô Đình Diệm , cả các chính trị gia trong Mặt trận Thống số 1 Quốc gia Liên hiệp chỉ trích [ 20 ]. Mỹ ủng hộ việc Pháp đàm phán với Bảo Đại với kỳ vọng nhà nước Bảo Đại sẽ giành lại hầu hết các người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc bản địa từ phía Hồ Chí Minh [ 23 ] .

Do bị các chính trị gia trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp chỉ trích, Bảo Đại chấm dứt đàm phán với Pháp , và đi du lịch châu u trong 4 tháng. Người Pháp cử các nhà ngoại giao theo Bảo Đại để thuyết phục ông tiếp tục đàm phán và thành lập Chính phủ. Trong cuốn “Bảo Đại – hay là các ngày cuối cùng của vương quốc An Nam”, Daniel Grandclément nhận xét[24]:

Có lẽ ông (Bảo Đại) cũng biết ông chẳng có hậu thuẫn gì đáng kể ở trong nước, càng chưa đủ sức chống lại kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo, nhưng đã ngập sâu trong cuộc sống phù phiếm hưởng lạc, ông chưa thể lùi lại được nữa. Phải ký kết. Tháng 1-1948, ông đi gặp Cao ủy Pháp ở Genève…

Tháng 1/1948, Cao ủy Pháp tại Đông Dương E. Bollaert tìm gặp Bảo Đại ở Genève ( Thụy Sĩ ) để thuyết phục ông quay về Việt Nam để thường xuyên đàm phán , và xây dựng nhà nước. Bảo Đại công bố nếu Hiệp ước Vịnh Hạ Long không đã được bổ trợ ông cũng sẽ không quay về Việt Nam. Sau đó ông đi Cannes, Paris rồi quay về Hồng Kông [ 25 ]. Tháng 3 năm 1948, Bảo Đại , và Mặt trận Thống số 1 Quốc gia Liên hiệp gặp nhau tại Hương Cảng , và chấp thuận đồng ý xây dựng cơ quan chính phủ lâm thời do Nguyễn Văn Xuân đứng đầu. Ngày 5/6/1948, Quốc gia Việt Nam ký kết với Pháp một Hiệp ước Vịnh Hạ Long khác với nội dung Pháp công khai minh bạch , trang trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam. Hiệp ước này vẫn không pháp luật đơn cử các quyền hạn của Quốc gia Việt Nam. Điều này sẽ được thỏa thuận hợp tác trong các cuộc đàm phán tiếp theo [ 20 ] .Việt Minh chỉ trích Bảo Đại chính là xấu xa, tội lỗi vì đã lấy lại đến từ người Pháp chữ ” độc lập ” thần kỳ mà Hồ Chí Minh đã cố gắng nỗ lực giành giật ở Fontainebleu không được. Các người Pháp có tư tưởng thực dân phản đối điều mà họ cho chính là sự đầu hàng của Bollaert, đồng thời nhu yếu cắt Nam Kỳ ra khỏi phần còn lại của Việt Nam, đòi đưa Việt Nam quay trở lại chính sách Bảo hộ. Các chính trị gia ở Paris ra sức trấn an các người Pháp ủng hộ chủ nghĩa thực dân , bảo vệ với họ rằng cũng sẽ không có gì biến hóa – cuộc cuộc chiến tranh sẽ không chấm hết. Các lãnh tụ Cộng hòa Bình dân , và nhiều người thân cận với Cộng hòa Bình dân lại cho rằng lê dài cuộc chiến tranh cũng sẽ rất chính là có lợi và đã đi đến quyết định hành động chưa để cho cuộc cuộc chiến tranh kết thúc sớm [ 26 ] .Phản ứng trước hành vi của Pháp và Bảo Đại, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố với quốc tế chỉ có nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính là cơ quan chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam, còn chính phủ nước nhà do Bảo Đại xây dựng là phạm pháp bởi nó đã được lập nên mà chưa trải qua bầu cử toàn dân. Tuyên bố trên nhanh gọn nhận đã được sự ủng hộ khi vào ngày 18-1-1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc , và tiếp sau đó là Liên Xô công nhận , và đặt quan hệ ngoại giao với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [ 27 ] .Sau đó Bảo Đại rút lui khỏi các hoạt động giải trí chính trị và đi châu u một lần nữa. Ngày 25/8/1948, đến từ Saint Germain Bảo Đại báo cho E. Bollaert biết ông cũng sẽ chưa quay về Việt Nam nếu Pháp chưa hủy bỏ chính sách thuộc địa tại Nam Kỳ , và trao trả Nam Kỳ lại cho Quốc gia Việt Nam cũng như nếu ông không nhận được sự bảo vệ của Pháp cho Việt Nam độc lập [ 28 ] .Tháng 1 năm 1949, ở đầu cuối Pháp cũng thỏa hiệp trước yên cầu của Bảo Đại, gộp đất Nam Kỳ vào Quốc gia Việt Nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau nhiều tháng đàm phán, Tổng thống Pháp Vincent Auriol , Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp định Élysée ( 1949 ) công bố thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu chính là Quốc trưởng Bảo Đại, Tuy vậy Quốc gia Việt Nam không có quyền tự chủ về kinh tế tài chính, ngoại giao, quân sự chiến lược .Theo một nghiên cứu và phân tích pháp lý thì Hiệp định Élysée là phạm pháp từ cả hai bên ký kết vì các nguyên do sau [ 3 ] :

Người Pháp chưa còn tư cách pháp lý quốc tế ở Việt Nam sau khi vua Bảo Đại ra Tuyên cáo tháng 3-1945, theo đó xóa bỏ các hiệp ước mà nhà Nguyễn ký với Pháp.Bảo Đại cũng không còn tư cách pháp lý đại diện cho quốc gia, bởi ông đã thoái vị ngày 25-8-1945 , chỉ còn chính là một công dân bình thường.Chính phủ đại diện cho nước Việt Nam khi đó chính là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mọi văn bản do công dân Việt Nam ký với bất kỳ chính phủ nào mà không được phép của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì đều vô giá trị.

Quá trình kiến thiết xây dựng

Quốc gia Việt Nam lúc mới xây dựng ( ngày 7/12/1947 ) rất là non yếu do các quyền quan trọng về quân sự chiến lược và ngoại giao đều bị người Pháp chi phối và quyền hành cao số 1 ở trên thực tiễn là Cao ủy Pháp. Tính độc lập của nhà nước Quốc gia Việt Nam bị hoài nghi khi mà hầu hết kinh phí đầu tư duy trì nó là do Pháp viện trợ, cũng như quân đội chưa có sĩ quan chỉ huy cấp cao người Việt [ 29 ]. Pháp chỉ đơn thuần là đưa các người lính mới tuyển mộ được vào các quân đoàn viễn chinh của Pháp, tại đó, người chỉ huy là các sĩ quan Pháp [ 30 ] .

Hai vấn đề quan trọng số 1 chính là ngoại giao và quân đội của chính phủ này thì vẫn do Pháp nắm giữ. Hiệp định Élysée quy định “Trong thời chiến, toàn bộ các phương tiện quốc phòng bao gồm chủ yếu bởi Quân đội Việt Nam , và quân đội Liên hiệp Pháp cũng sẽ đã được nhập chung, và Ủy ban quân sự là thành phần hạt nhân của một bộ Tổng Tham mưu hỗn hợp mà việc chỉ đạo và chỉ huy cũng sẽ do một Sĩ quan cấp Tướng của Pháp chịu trách nhiệm về các chiến trường chủ yếu ở Việt Nam và một trong các Tổng Tham mưu là người Việt Nam“. mục tiêu như tướng Nava đã viết: “…cuộc chiến tranh này phải đã được chỉ đạo và muốn như vậy sự thống số 1 hành động chính trị , quân sự phải đã được thực hiện trong hàng ngũ của mọi người cũng như bên đối phương đã từng làm… Cuối cùng, tôi yêu cầu chính là cần phải làm tất cả để các quốc gia liên kết (trong đó có Quốc gia Việt Nam) phải thực sự tham gia chiến tranh… Đồng thời Mỹ phải từ bỏ ý định thay thế ảnh hưởng của họ” [31].

Cuối tháng 6 năm 1949, về danh nghĩa, Việt Nam chính thức thống nhất dưới sự quản trị của Quốc gia Việt Nam [ 20 ] ( trong thực tiễn nhiều vùng Việt Nam nằm dưới sự quản trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ). Pháp chuyển giao các công dụng hành chính cho Quốc gia Việt Nam một cách chậm trễ. Tính đến đầu năm 1950, có 35 quốc gia công nhận Quốc gia Việt Nam [ 32 ] .

Từ tháng 6 cho đến tháng 10 năm 1950, Quốc gia Việt Nam và Pháp họp tại Pau (Pháp) để bàn về việc chuyển giao các chức năng quản lý xuất nhập cảnh, quan hệ ngoại giao, ngoại thương, hải quan và tài chính cho Quốc gia Việt Nam. Tài chính là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất bao gồm việc kiểm soát lợi nhuận từ hoạt động ngoại hối. Kết quả tất cả các chức năng ở trên được Pháp chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam. Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu sau khi ký thỏa thuận với Pháp đã tuyên bố: “Nền độc lập của chúng tôi hiện nay thật tuyệt vời“. Các quan chức Pháp phàn nàn về Bảo Đại: “Ông ấy tập trung quá mức vào việc lấy lại từ chúng tôi các gì có thể thay vì tìm kiếm sự ủng hộ từ nhân dân… Lịch sử cũng sẽ phán xét ông ấy vì quá chú tâm vào chuyện này“. Tuy vậy người Pháp vẫn giành cho mình quyền quan sát và can thiệp đối với các vấn đề liên quan đến toàn bộ Liên hiệp Pháp. Người Pháp còn có quyền tiếp cận mọi thông tin nhà nước, tham dự vào tất cả các quyết định của chính phủ và nhận một khoản nhỏ từ lợi tức quốc gia của Việt Nam[20].

Lính Quốc gia Việt Nam thực hiện lễ chào cờ Quốc gia Việt Nam , và Pháp tại TP Bắc Ninh

Nhiều người Pháp xem đây là một sự đến từ bỏ quyền lực tai hại của Pháp tại Việt Nam và chính là sự cáo chung của Pháp ở Đông Nam Á còn phái đoàn Quốc gia Việt Nam xem các kết quả đạt được ở Pau chính là một bước tiến. Theo họ muốn giành được độc lập hoàn toàn từ Pháp thì phải làm từ từ lâu dài , và kiên nhẫn. Archimedes L.A Patti nhận xét: “Tất nhiên họ (Quốc gia Việt Nam) đã lầm, không bao giờ Pháp cho Việt Nam độc lập để mất Đông Dương. Bảo Đại trở về Việt Nam , cho rằng ông ta đã thực hiện hết sức mình để người Pháp phải giữ lời cam kết. Ông cũng sẽ chờ và xem. Có thể người Mỹ cũng sẽ khích lệ hỗ trợ cho đỡ. Nhưng sau một ngày ở Sài Gòn, thấy Pháp từ chối không cho ông sử dụng dinh Norodom, trụ sở chính quyền thuộc địa Pháp, Bảo Đại liền rút lui về nhà ở Đà Lạt. Sự việc này nhận thấy rõ tình hình chẳng có gì thay đổi cả” [33].

Ngày 8/12/1950, Quốc gia Việt Nam , Pháp ký Hiệp định quân sự chiến lược xây dựng Quân đội Quốc gia Việt Nam chỉ bằng cách đặt 1 số ít đơn vị chức năng quân đội Pháp tại Việt Nam dưới quyền chỉ huy của Quốc gia Việt Nam. Đến cuối năm 1950, Pháp đã ký kết các Hiệp ước với Quốc gia Việt Nam, trao trả các quyền hành chính, ngoại giao, thuế quan, quản trị xuất nhập cảnh … cho nhà nước này. Việc chuyển giao quyền trấn áp các cơ quan chức năng cho Quốc gia Việt Nam đã được thực thi dần trong các năm sau đó. Tuy đã được Pháp chuyển giao tổng thể các công dụng nhà nước nhưng Quốc gia Việt Nam vẫn phải nhờ vào vào viện trợ , và sự bảo vệ của quân Pháp để duy trì hoạt động giải trí. Thí dụ, chỉ riêng việc duy trì quân đội đã yên cầu hơn 500 tỷ frăng viện trợ. Các hoạt động giải trí quân sự chiến lược của Quốc gia Việt Nam vẫn thuộc quyền chỉ huy của Ủy ban Quân sự mà Tư lệnh chính là một sĩ quan Pháp .

Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, được phái sang Việt Nam để nghiên cứu tình hình (tháng 5, 6 năm 1949) , và sau đó đã viết: “Hồ Chí Minh đã có năng lực chống cự lại với sự can thiệp của Pháp lâu đến như thế, chính là vì nhà lãnh đạo Việt Minh đã biết tập hợp chung quanh mình một nhóm các người thực sự có năng lực… Ngược lại, Bảo Đại đã có một chính phủ gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng phái ma, trong số đó đảng mạnh số 1 cũng khó mà đếm đã được 25 đảng viên” [34].

Người Pháp trì hoãn một cách có đo lường và thống kê việc thi hành thoả hiệp Élysée với Quốc gia Việt Nam. Quân đội của họ liên tục tham chiến tại Việt Nam, nhân viên cấp dưới hành chính thường xuyên thao tác ở các cấp chính quyền sở tại ; Quốc gia Việt Nam chẳng đã được trao cho một chút ít quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ chính là một sự nguỵ trang cho nền quản lý của Pháp [ 35 ] .

Hiệp ước Matignon

Tháng ba năm 1954, Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc mở cuộc điều đình với Pháp về chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam yên cầu Pháp phải ký hai Hiệp ước riêng. Hiệp ước thứ số 1 công nhận sự độc lập toàn vẹn của Quốc gia Việt Nam, Quốc gia Việt Nam sẽ trở thành một nước độc lập không bị ràng buộc bởi nhà nước Pháp. Hiệp ước thứ hai sẽ minh định quan hệ giữa Việt Nam , Pháp [ 36 ]. Trong khi đó chiến trận ở Đông Dương càng tăng cường mức độ. Sự thất trận của Pháp tại Điện Biên Phủ vào tháng Năm càng thực hiện tình hình thêm thúc bách .Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Genève được ký kết 6 tuần, Thủ tướng Pháp đã ký Hiệp ước Matignon ( 1954 ) với Thủ tướng Quốc gia Việt Nam công nhận Quốc gia Việt Nam trọn vẹn độc lập , chính là thành viên của khối Liên hiệp Pháp [ 37 ]. Theo đó cơ quan chính phủ Quốc gia Việt Nam cũng sẽ tự chịu nghĩa vụ , và trách nhiệm với các hiệp định quốc tế đã được ký bởi nhà nước Pháp trước đó nhưng có tương quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất kể hiệp ước nào do nhà nước Pháp ký sau này. Tuy vậy, có quan điểm cho rằng Quốc gia Việt Nam vẫn bị ràng buộc bởi Liên hiệp Pháp vì chính phủ nước nhà này chỉ chiếm hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền lãnh thổ rất nhiều đầy đủ, và đặc biệt quan trọng là nó nhờ vào vào Pháp về quốc phòng [ 38 ]. Mặt khác, Hiệp ước Matignon chỉ được ký dưới dạng ghi nhớ giữa 2 Thủ tướng chứ không phải nguyên thủ cao nhất của 2 bên ( Tổng thống Pháp René Coty và Quốc trưởng Bảo Đại ). Nhiều người đổ lỗi cho Quốc gia Việt Nam vì họ không có chữ ký trong Hiệp định, nhưng chính Pháp cũng phủ nhận ký vào Hiệp ước đã được thương thảo xong. Bảo Đại đã đến Pháp từ tháng 4 , và dự tính rằng yếu tố ký chính thức sẽ đã được xử lý trong 2-3 tuần, nhưng dự tính này đã tắt ngấm khi Hiệp định Genève diễn tiến quá nhanh. Sau khi Hiệp định Genève được ký, Hiệp ước Matignon đã chưa khi nào đã được triển khai xong [ 6 ]. Đặc biệt, khi chính quyền sở tại của Thủ tướng Joseph Laniel đưa yếu tố trao trả độc lập cho Quốc gia Việt Nam thì bị Quốc hội Pháp kịch liệt phản đối [ 39 ] .

Hiệp định Genève

Vào cuối tháng 4 năm 1954 thì Hội nghị Genève khởi đầu và lê dài đến khi ký Hiệp ước vào ngày 21 tháng 7 năm 1954. Đây chính là Hiệp ước có 9 phái đoàn tham gia gồm Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Lào , và Campuchia để tái thiết tự do ở Đông Dương ; trong các thành phần, 1 số ít phái đoàn chỉ tham gia mà không ký vào Hiệp ước. Hiệp ước đình chỉ chiến sự, trong thời điểm tạm thời chia Việt Nam thành hai phần cho hai lực lượng Việt Minh , và Liên hiệp Pháp. Kết quả Hiệp định này trên trong thực tiễn đã bãi bỏ quyền quản lý của người Pháp trên bán đảo Đông Dương, công nhận nền độc lập của các quốc gia bản xứ, chính thức chấm hết chính sách thực dân Pháp tại Đông Dương .Việc đàm phán , và ký Hiệp định Geneve do Pháp tự thực thi với cơ quan chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pháp cũng chẳng cần tìm hiểu thêm quan điểm đến từ Quốc gia Việt Nam. [ 3 ]Theo Hiệp ước Genève 1954, chủ quyền lãnh thổ nước Việt Nam bị tạm chia làm hai vùng tập trung quân sự chiến lược, lấy vĩ tuyến 17 ( dọc sông Bến Hải ) thực hiện giới tuyến quân sự chiến lược trong thời điểm tạm thời. Miền Bắc do lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam trấn áp, miền Nam do lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp, trong đó có Quân đội Quốc gia Việt Nam trấn áp, sau một thời hạn, theo pháp luật của Hiệp định Genève, quân đội Pháp rút dần về nước. Hiệp ước cũng lao lý 300 ngày chính là thời hạn để chính quyền sở tại , và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa , Liên hiệp Pháp hoàn thành xong việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền. Theo Bản công bố sau cuối sau 2 năm sẽ thực thi tổng tuyển cử thống số 1 Việt Nam .Ông Trần Văn Đỗ, trưởng phi hành đoàn đại diện thay mặt của Quốc gia Việt Nam công bố sẽ không ký vào Hiệp định Genève với Nguyên do Hiệp định gây chia cắt Việt Nam [ 40 ] và đẩy Quốc gia Việt Nam vào thế nguy khốn [ 41 ]. Đại diện phái đoàn Quốc gia Việt Nam ra một công bố riêng :

“Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có các điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh các vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam… chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng các điều khoản chưa tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc làm Thống nhất, Độc lập, , và Tự do cho xứ sở.” [42]

Sau khi Hiệp định Genève đã được ký kết, về vấn đề hiệp thương thống số 1 hai miền, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi chưa từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hòa bình , dân chủ” nhưng còn nói thêm chính là ông “nghi ngờ về việc có thể bảo đảm các điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc” [43]. Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố rằng, mục tiêu của Quốc gia Việt Nam chính là “thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ” [43]. Mặc dù Ngô Đình Diệm tuyên bố muốn “thống số 1 đất nước”, nhưng nhà sử học Mortimer T. Cohen cho rằng thực tâm ông Diệm không muốn cuộc tổng tuyển cử diễn ra vì ông ta biết mình sẽ chưa thể thắng cử trước Hồ Chí Minh. Cuộc tổng tuyển cử đã chưa thể diễn ra như theo Tuyên bố cuối cùng của hiệp định Genève[44]. Mãi tới năm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam mới tổ chức đã được cuộc Tổng tuyển cử để thống nhất chính quyền của hai miền.

Giai đoạn Hậu Hiệp định Genève 1954 – 1956

Vì không trọn vẹn độc lập khỏi Pháp nên lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam vẫn theo quân Pháp tập trung về miền Nam Việt Nam. Quân Pháp cũng sẽ rút dần sau hai năm , và Việt Nam cũng sẽ triển khai tổng tuyển cử thống nhất quốc gia .Tuy vậy, báo cáo giải trình của CIA cho Tổng thống Mỹ Eisenhower thấy rằng khoảng chừng 80 % dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành [ 45 ]. Có quan điểm cho rằng Ngô Đình Diệm chưa muốn có cuộc Tổng Tuyển cử vì ông ta biết rằng mình cũng sẽ thua ; và không ai hoàn toàn có thể thắng Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng Tuyển cử tự do, vì ông là một George Washington của Việt Nam [ 46 ]. Vì các Nguyên do đó Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử chưa hề diễn ra .Theo Tuyên bố sau cuối của Hiệp định Genève thì Tổng tuyển cử ở cả hai miền được dự trù vào tháng 7 năm 1956 nhưng Tổng thống Ngô Đình Diệm bác bỏ mọi cuộc bàn luận sơ khởi, hành vi này khiến Ngô Đình Diệm bẽ mặt ở phương Tây. Theo nhận xét của Tây phương thì Ngô Đình Diệm là kẻ ngoan cố , khao khát quyền lực tối cao chuyên chế, nhưng theo Duncanson thì thực sự phức tạp hơn. Miền Bắc có dân số đông hơn miền Nam 2 triệu người ( tính cả gần 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam ). Hơn nữa, vào thời gian 1955 – 1956, trước sự hỗn loạn tạo ra bởi sự tranh giành của các giáo phái , và do hoạt động giải trí bí hiểm của Việt Minh tại miền Nam, cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam tạo ra bầu chưa khí lo lắng kiệt sức dẫn đến cuộc nổi dậy của nông dân tại các vùng lân cận Vinh. Do vậy, Ducanson cho rằng các tình hình diễn ra ở cả hai miền khiến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương chưa có kỳ vọng bảo vệ một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri hoàn toàn có thể bỏ phiếu theo ý muốn mà không sợ bị trả thù chính trị [ 47 ] Tuy vậy, trái ngược với quan điểm của Ducanson, theo các báo cáo giải trình của Ủy ban Giám sát Quốc tế thì trong quá trình tiến độ 1954 – 1956, họ chỉ nhận đã được 19 đơn khiếu nại về việc trả thù chính trị trên toàn chủ quyền lãnh thổ miền Bắc Việt Nam [ 48 ] .

Được Mỹ tương hỗ

Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do Edward Lansdale, người của CIA , và đã thực hiện cố vấn cho Pháp tại Việt Nam đến từ 1953, hỗ trợ cho huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau đó đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí , thiết bị quân sự vào Việt Nam; hỗ trợ đỡ phát triển các kế hoạch “bình định Việt Minh , và các vùng chống đối” [49]. Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1-1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho quân đội Quốc gia Việt Nam.

Tính ra, đến từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa 7 tỷ đôla, trong đó viện trợ quân sự chiến lược là 1.500 triệu đôla [ 50 ]. Trong các năm 1954 – 1956, Mỹ đã dành ra 414 triệu đôla hỗ trợ trang bị cho các lực lượng thường trực Việt Nam Cộng hòa, gồm 170.000 quân , lực lượng công an 75.000 quân ; 80 % ngân sách quân sự chiến lược của Quốc gia Việt Nam chính là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tổng thể 800 chuyến tàu chờ vũ khí và phương tiện đi lại quân sự chiến lược của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này hỗ trợ cho Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì cỗ máy hành chính , và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp chỉ bằng của Mỹ .Tuy người Pháp công nhận nền độc lập của Quốc gia Việt Nam họ chỉ miễn cưỡng chuyển giao các cơ quan hành chính mà họ còn nắm giữ như cố ý gây cản trở tiến trình tách Quốc gia Việt Nam ra khỏi Liên hiệp Pháp, nhất chính là sau khi Quốc trưởng Bảo Đại chọn Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, một người chưa có thiện cảm với Pháp. Trong khi đó Pháp thường xuyên chi viện cho nhóm Bình Xuyên , hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo cho đến năm 1955 mới thôi. Ba nhóm này có khoảng chừng 20.000 quân trấn áp một vùng to lớn ; quân Cao Đài đa phần ở miền Đông Nam Bộ, quân Hòa Hảo ở miền Tây còn Bình Xuyên chiếm cứ Sài Gòn-Chợ Lớn. Khi chưa còn chi viện của Pháp nữa, các lực lượng này quay sang làm áp lực đè nén , tranh chấp với cơ quan chính phủ Quốc gia .

Quân Pháp rút khỏi Việt Nam

Sự kiện quan trọng trong quy trình tiến độ này chính là việc Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower gửi công hàm chính thức cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho biết đến từ đây cơ quan chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ nước nhà Hoa Kỳ chứ chưa qua nhà đương cục Pháp như trước .Ngô Đình Diệm cho rằng thời cơ duy nhất cho cơ quan chính phủ quốc gia Việt Nam đứng vững đã được chính là phải thoát khỏi các ảnh hưởng tác động còn sót lại của Pháp, , ông quyết định hành động phải thực thi tiềm năng đó. Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông bãi bỏ quyền phát hành giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương ( một cơ quan do Pháp xây dựng ), từ nay giấy bạc lưu hành ở trên chủ quyền lãnh thổ miền Nam cũng sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam mới xây dựng phát hành và cục hối đoái giao cho cơ quan chính phủ Quốc gia Việt Nam quản trị. Tiếp đó ông nhu yếu chính phủ nước nhà Pháp trong vòng năm tháng triển khai chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam mọi công tác thực hiện việc của Quân đội Quốc gia Việt Nam còn nhờ vào vào bộ chỉ huy Liên hiệp Pháp .

Xung đột giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm , và Quốc trưởng Bảo Đại

Ngoài ra Thủ tướng Ngô Đình Diệm trực tiếp cạnh tranh đối đầu với Quốc trưởng Bảo Đại khi ông trải qua Dụ số 21 ngày 11 tháng 3 năm 1955 chính thức sáp nhập Hoàng triều Cương thổ vào lại Trung phần [ 51 ], chấm hết độc quyền của người Pháp , và Cựu hoàng Bảo Đại ở trên vùng Thượng , tên tuổi Cao nguyên Trung phần đã được dùng lại .Quốc trưởng Bảo Đại thấy chưa tinh chỉnh , điều khiển được Ngô Đình Diệm cũng đống ý theo người Pháp, gây áp lực đè nén đòi Mỹ rút lại mọi ủng hộ cho chính phủ nước nhà Ngô Đình Diệm , gây sức ép buộc ông này đến từ chức. Bảo Đại muốn đưa Nguyễn Văn Xuân lên thực hiện Thủ tướng, hoặc Phó Thủ tướng, Nguyễn Văn Hinh làm Tổng Tham mưu trưởng còn tướng Bình Xuyên Bảy Viễn làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Các giáo phái lớn tại miền Nam chưa quyết định hành động trọn vẹn ủng hộ bên nào. Thậm chí, Đại sứ J. Lowton Collins cũng muốn sửa chữa trị thay thế ông Diệm. Collins quay về Mỹ vài lần, thuyết phục cơ quan chính phủ Mỹ gây sức ép buộc ông Diệm đến từ chức .Thời điểm này, cơ quan chính phủ của ông Diệm cũng như bản thân ông sống sót đã được thực ra chính là nhờ các ảnh hưởng tác động rất là thiết yếu của các người bạn chính là dân biểu , và thượng nghị sĩ Mỹ mà ông đã tranh thủ đã được khi sang Mỹ hoạt động vào năm 1950. Khi Đại sứ J. Lowton Collins nhu yếu Washington phải thay thế sửa điều trị Ngô Đình Diệm, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles tham vấn Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Thượng nghị sĩ Mike Mansfield khen ngợi Ngô Đình Diệm hết lời nên Ngoại trưởng Dulles thông tư Đại sứ J. Lowton Collins thường xuyên ủng hộ ông Diệm [ 52 ] .

Ngày 1 tháng Giêng, Ngô Đình Diệm ký nghị định hủy bỏ các sòng bài Kim Chung (khu cầu Muối) , và Đại Thế giới (Grande Monde) ở Chợ Lớn. Xóm Bình Khang mại dâm cũng bị dẹp, chấm dứt các nguồn tài chính lớn này của Bình Xuyên. Nhóm này cùng với lực lượng Cao Đài và Hòa Hảo lập Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia vào tháng 3 với sự ủng hộ ngầm của Pháp nhằm lật đổ Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Do chính là trước năm 1955, Pháp chi viện cho hai giáo phái 5 triệu đồng mỗi tháng[53] nhưng đến từ khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm chưa chịu giải ngân số tiền cho các môn phái này nữa kể từ trung tuần tháng hai 1955 thì ba lực lượng ở trên chống đối ra mặt. Bình Xuyên còn vận động Quốc trưởng Bảo Đại thực hiện áp lực với Thủ tướng vì sòng bài đã cung cấp lợi tức cho Bảo Đại một triệu đồng mỗi ngày (trị giá 28.500 Mỹ kim theo tỷ giá hối đoái đương thời)[53].

Ngày 21 tháng 3 năm 1955, Mặt trận gửi tối hậu thư cho thủ tướng đòi quyền tham chính. Thủ tướng phải gọi tướng Đỗ Cao Trí về để chống lại công an công an do Bình Xuyên chỉ huy. Bình Xuyên phản công, pháo kích vào Dinh Độc lập ngày 28 Tháng Ba. Sang tháng 4 năm 1955 thì quân Bình Xuyên đánh thành Cộng Hòa. Quân đội Quốc gia phản công, phá đã được địa thế căn cứ chính của Bình Xuyên ở khu vực cầu Chữ Y khiến lực lượng Bình Xuyên phải triệt thoái khỏi TP HCM, Chợ Lớn và rút về Rừng Sác .Sau đó lại có tin Bảo Đại đòi Ngô Đình Diệm sang Pháp trình diện để xử lý các tranh chấp. Thủ tướng liền cho triệu tập 1 số ít đoàn thể chính trị , và nhân sĩ vào Dinh Độc lập hội kiến , tìm hiểu thêm tìm cách đối phó với thực trạng ngày thêm trộn lẫn. Nhóm này liền link lập ra Ủy ban Cách mạng Quốc gia , và trình lên ba đề xuất kiến nghị cũng vào ngày 29 tháng 4 năm 1955 :

1/ Truất phế Bảo Đại,2/ Giải tán chính phủ hiện hữu,3/ Ủy nhiệm Ngô Đình Diệm thanh trừng quân phiến loạn Bình Xuyên, buộc Pháp rời khỏi Miền Nam, , và mở cuộc bầu cử quốc dân đại hội.

Tháng 9 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm chỉ huy Đại tá Dương Văn Minh mở Chiến dịch Hoàng Diệu truy nã Bình Xuyên ở Rừng Sác. Quân Bình Xuyên bị trọn vẹn hủy hoại. Lê Văn Viễn lưu vong sang Campuchia rồi sang Pháp, chấm hết tiềm năng của Bình Xuyên .Ngô Đình Diệm đã dẹp yên chuyện tướng Nguyễn Văn Hinh công khai minh bạch cạnh tranh đối đầu , và rình rập đe dọa thay máu chính quyền đồng thời cương quyết phủ nhận cho Tướng Bình Xuyên là Bảy Viễn ( Lê Văn Viễn ) tham gia chính quyền sở tại dù Bảy Viễn rình rập đe dọa tắm máu Hồ Chí Minh nếu nhu yếu của mình chưa được cung cấp [ 52 ] .

Thành lập Việt Nam Cộng hòa

Năm 1955, nhờ gian lận trong một cuộc Trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống tiên phong của cơ quan chính phủ Việt Nam Cộng hòa [ 54 ]. Đây là nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam , tên gọi Quốc gia Việt Nam chưa còn được sử dụng nữa .Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn coi cuộc Trưng cầu dân ý chính là một trò hề khi Ngô Đình Diệm đã gian lận một cách trắng trợn [ 55 ] và chưa thừa nhận cuộc Trưng cầu dân ý này .

Quân đội

Thành lập

Ngày 8/12/1950, Quốc gia Việt Nam , và Pháp ký Hiệp định quân sự chiến lược xây dựng Quân đội Quốc gia Việt Nam chỉ bằng cách đặt Một vài ít đơn vị chức năng quân đội Pháp tại Việt Nam dưới quyền chỉ huy của Quốc gia Việt Nam. Dự kiến quân đội này cũng sẽ gồm có 120.000 quân và 4.000 sĩ quan. Pháp sẽ tương hỗ Quốc gia Việt Nam xây dựng các đơn vị chức năng mới do sĩ quan Việt Nam chỉ huy , và đào tạo sĩ quan người Việt sửa chữa thay thế dần các sĩ quan Pháp đang hiện hữu trong Quân đội Quốc gia Việt Nam .Về việc xây dựng Quân đội Quốc gia Việt Nam, tướng Jean de Lattre de Tassigny nhận xét ” người Việt có năng lực trở thành các chiến binh xuất sắc “. Chỉ cần vài tuần huấn luyện , và đào tạo chính là hoàn toàn có thể tạo ra các đơn vị chức năng có năng lực tác chiến. Thanh niên Việt Nam rất nhiều, nếu Quốc gia Việt Nam không tuyển mộ thì cũng sẽ bỏ phí, không các có vậy hoàn toàn có thể Việt Minh cũng sẽ tuyển mộ các người đó. Vấn đề của Quân đội Quốc gia Việt Nam là thiếu chỉ huy người Việt. Để xử lý yếu tố này cần sự trợ hỗ trợ cho của Mỹ. Bất cứ một sĩ quan Pháp nào sẽ gây nên tranh chấp thực hiện suy yếu đơn vị chức năng anh ta chỉ huy [ 56 ]. Tuy vậy de Lattre nhất quyết chống lại viện trợ trực tiếp của Mỹ cho Quân đội Quốc gia Việt Nam [ 57 ] .

Phát triển

Trong nỗ lực xây dựng Quân đội Quốc gia Việt Nam, yếu tố cơ bản chính là đào tạo sĩ quan , và hạ sĩ quan. Quốc gia Việt Nam thừa nhận họ thiếu các người được huấn luyện và đào tạo quân sự chiến lược nhưng công bố vì nguyên do chính trị họ rất nhiều ngại sử dụng sĩ quan Pháp. Nhưng Pháp lại chưa đồng ý trang bị vũ khí cho các đơn vị chức năng Quân đội Quốc gia Việt Nam mới xây dựng trừ khi Việt Nam gật đầu một tỷ suất nhất định sĩ quan quốc tế trong Quân đội Quốc gia Việt Nam trong thời hạn sĩ quan Việt Nam đang đã được đào tạo và giảng dạy. Quốc gia Việt Nam cũng sẽ mở các trường đào tạo sĩ quan. Pháp có nghĩa vụ , trách nhiệm tương hỗ Quốc gia Việt Nam trong công tác làm việc đào tạo và giảng dạy sĩ quan [ 56 ] . Sĩ quan Pháp trao huân chương cho binh lính quân đội Quốc gia Việt NamDo vậy, có tài liệu cho rằng Quân đội Quốc gia Việt Nam đã được huấn luyện , đào tạo kém và không có sĩ quan chỉ huy cấp cao người Việt [ 29 ]. Pháp chỉ đơn thuần là đưa các người lính mới tuyển mộ được vào các quân đoàn Viễn chinh của chính Pháp, tại đó, người chỉ huy chính là các sĩ quan Pháp [ 30 ] .Quân đội Quốc gia Việt Nam tăng trưởng nhanh gọn về số lượng gồm có các tiểu đoàn bộ binh hạng nhẹ. Tính đến mùa đông năm 1953 Quân đội Quốc gia có 200.000 quân chính quy ( trong đó có 50.000 quân dự bị ) , và 78.000 địa phương quân. Vào tháng chạp năm 1954, sau khi Kế hoạch Navarre đã được tiến hành thì quân số trong Quân đội Quốc gia Việt Nam lên tới 230.000 người, trong đó có 165.000 quân chính quy và 65.000 quân địa phương [ 58 ]. Số tiền người Pháp bỏ ra để viện trợ cho hoạt động giải trí của quân đội này chính là : 524 tỉ francs năm 1952, 585 tỉ năm 1953, 575 tỉ năm 1954 .Ngày 1 tháng 12 năm 1948, nhà nước Quốc gia Việt Nam lập ra Trường Sĩ quan Việt Nam ở Đập Đá, Huế để giảng dạy nhân sự chỉ huy cho Quân đội Quốc gia Việt Nam. Hai năm sau, trường sở được chuyển lên Đà Lạt với tên mới chính là Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 5 tháng 11 năm 1950 [ 59 ] .Hai Trường Sĩ quan Trừ bị Quận Thủ Đức và Tỉnh Nam Định đã được xây dựng ngày 11/5/1950 , chính thức hoạt động giải trí ngày 1/10/1951, có nghĩa vụ , và trách nhiệm đào tạo sĩ quan cho Quân đội Quốc gia Việt Nam. Số sĩ quan huấn luyện , và đào tạo đã được trong quá trình tiến độ 1951 – 1954 của hai trường này chính là :

Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức: 5.368 sĩ quanTrường sĩ quan Nam Định: 255 sĩ quan (trường này chỉ mở một khóa duy nhất từ 1/10/1951 đến 1/6/1952)

Tổng số sĩ quan hai trường huấn luyện và đào tạo đã được trong quá trình 1951 – 1954 chính là 5.623 người. Sau khi tốt nghiệp, các sĩ quan đã được mang cấp bậc Thiếu úy [ 56 ] .

Đến cuối năm 1953, Quân đội Quốc gia Việt Nam đã được đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Văn Hinh[60]. Thời điểm này các đơn vị trong Quân đội Quốc gia Việt Nam bắt đầu tác chiến độc lập dưới sự chỉ huy của sĩ quan người Việt[61]. Tuy vậy, trong các chiến dịch lớn, thực tế các sĩ quan người Việt này vẫn nằm dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp thuộc Bộ Tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương (Thí dụ như trong trận Điện Biên Phủ các tiểu đoàn Quốc gia Việt Nam phải tuân lệnh của trung tá Pháp Pierre Langlais). Hiệp ước Elysee cũng ghi rõ: “Trong thời chiến, toàn thể quân đội Việt Nam , Liên hiệp Pháp đã được đặt chung dưới quyền chỉ huy của Ủy ban Quân sự mà Tư lệnh sẽ chính là một sĩ quan Pháp có một Tham mưu trưỏng phụ tá.”

Edmund A. Gullion, Bí thư Cố vấn Pháp ở Sài Gòn (từ 1950) cho rằng: “Thật khó mà truyền đã được một tinh thần dân tộc hăng say vào một đội quân người bản xứ mà trước đây sĩ quan , và hạ sĩ quan của họ đều là người Pháp da trắng… Các đơn vị Việt Nam đi hoạt động rất ít khi được người Pháp hỗ trợ… Có lẽ biểu hiện có ý nghĩa nhất và cũng chính là đáng buồn nhất trong việc Pháp thiếu sót không tổ chức được quân đội Việt Nam thực sự độc lập và có thế chiến đấu theo cách của De Lattre hiểu, là ở Điện Biên Phủ đã vắng bóng mọi đơn vị chiến đấu Việt Nam. Đó là một cuộc trình diễn của Pháp”. Tại Điện Biên Phủ, ngày 6/5/1954, người Việt chiếm gần 3% số sĩ quan, 16,2% số hạ sĩ quan, 39,2% số lính. Tuy vậy quân đội Quốc gia Việt Nam có tinh thần chiến đấu thấp và có ít tiếng nói trong việc quyết định các vấn đề chiến thuật và chiến lược, , và cũng có rất nhiều ít nguyên do để chiến đấu một cách mãnh liệt trong một cuộc chiến tranh của người Pháp[62].

Tập kết vào miền Nam

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ , và ký Hiệp định Genève, quân đội Quốc gia Việt Nam theo quân Pháp tập trung về miền Nam Việt Nam. Ngày 12 tháng 1 năm 1955, Ngô Đình Diệm đã chỉ định Thiếu tướng Lê Văn Tỵ vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng. Quân đội Quốc gia Việt Nam chuyển sang nằm dưới quyền cơ quan chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam của tổng thống Ngô Đình Diệm , và trở thành hạt nhân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa .

Ngoại giao

Chiếu theo Điều II trong Hiệp ước Élysée thì Quốc gia Việt Nam có quyền trao đổi đại sứ với các nước khác nhưng Tổng thống Pháp, nhân danh Chủ tịch Liên hiệp Pháp có quyền phê chuẩn hay không chấp nhận, đồng thời “Việt Nam sẽ theo đuổi một chính sách ngoại giao phù hợp với chính sách của Liên hiệp Pháp”. Tính đến đầu năm 1950 có 35 quốc gia công nhận Quốc gia Việt Nam,[32] trong số đó có Hoa Kỳ, Nam Hàn, Xiêm La, Ba Tư, Bỉ, Tân Tây Lan, Úc, Hy Lạp, Tây Ban Nha và các nước Nam Mỹ.[63]

Hoa Kỳ , và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland công nhận Chính quyền Quốc gia Việt Nam ngày 7 tháng 2 năm 1950. Donald Heath đã được cử làm đại sứ Mỹ tiên phong sang nhận nhiệm sở ở Hồ Chí Minh. [ 64 ]Trong quy trình sống sót, trước sức ép đến từ Mỹ, Pháp phải nới rộng tính độc lập và tự trị của Quốc gia Việt Nam so với lúc mới xây dựng. Tháng 9/1951, Quốc gia Việt Nam đại diện thay mặt Việt Nam tham gia Hội nghị San Francisco gồm phái đoàn của 51 nước để bàn luận về việc ký Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản [ 65 ]. Một dấu mốc ngoại giao của Quốc gia Việt Nam là việc cùng Pháp đổ quân tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa , Trường Sa từ tay Đế quốc Nhật Bản. [ 32 ] [ 65 ]

Các đời Thủ tướng

Quốc gia Việt Nam theo hình thức quân chủ lập hiến với nguyên thủ là Quốc trưởng Bảo Đại. Về mặt hành pháp có chức vụ Thủ tướng, đã được chỉ định bởi Quốc trưởng , và chịu nghĩa vụ , và trách nhiệm trước Quốc trưởng . Ngày 16 Tháng Sáu năm 1954 Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng trong khi ở Genève các phe tham chiến đang thương thuyết tìm một biện pháp cho đại chiến ở Đông Dương. Sang đầu tháng Bảy list Nội các như sau : [ 67 ]

Thành phần nhà nước đến từ tháng 7/1954 đến tháng 10/1955

Đánh giá

Tính pháp lý của việc thành lập Quốc gia Việt Nam

Theo một nghiên cứu , và phân tích pháp lý thì Hiệp định Élysée ( bản Hiệp định thành lập Quốc gia Việt Nam ) chính là một văn bản phạm pháp, bởi cả hai bên tham gia ký kết đều không có đủ tư cách pháp lý vì các nguyên do sau [ 3 ] :

Chính phủ Pháp chưa còn tư cách pháp lý quốc tế ở Việt Nam sau khi vua Bảo Đại ra Tuyên cáo tháng 3-1945, theo đó xóa bỏ các hiệp ước mà nhà Nguyễn đã ký với Pháp.Bảo Đại cũng chưa còn tư cách pháp lý đại diện cho nước Việt Nam, bởi ông đã thoái vị ngày 25-8-1945 , và chỉ còn chính là một công dân bình thường. Một công dân thì không có quyền đại diện cho quốc gia để ký kết Hiệp định với nước ngoài (chỉ có nguyên thủ quốc gia hoặc Quốc hội mới có quyền này).Chính phủ đại diện cho nước Việt Nam khi đó chính là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mọi văn bản do công dân Việt Nam ký với bất kỳ chính phủ nào mà không đã được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì đều là vô giá trị.

Lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ sự tồn tại của Quốc gia Việt Nam ngay đến từ khi Quốc gia Việt Nam mới thành lập năm 1949. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo chưa bao giờ thừa nhận tính chính danh , và hợp pháp của nó. Họ cho rằng đó chưa phải là ý nguyện của người dân Việt Nam muốn đã được độc lập hoàn toàn, thay vì vẫn duy trì một quốc gia thuộc Liên hiệp Pháp. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem Quốc gia Việt Nam chỉ là Chính phủ bù nhìn, chính là chiêu bài để Pháp thi hành chính sách “Da vàng hóa chiến tranh”, dùng “Độc lập giả hiệu” để mê hoặc người Việt trong khi Pháp vẫn ngầm đứng sau khống chế[69][70].

Theo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pháp đã tự nguyện đến từ bỏ quyền đại diện thay mặt ở trên trường quốc tế ngay đến từ khi Pháp trao quyền trấn áp Việt Nam cho Phát xít Nhật vào năm 1945. Bảo Đại ( tên thật chính là Vĩnh Thụy ) cũng không có tư cách pháp lý đại diện thay mặt cho quốc gia sau khi thoái vị ngày 25-8-1945 và trở thành một công dân thông thường. nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được bầu lên bởi cuộc tổng tuyển cử tháng 1 năm 1946 nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính là người đại diện thay mặt chính danh duy nhất của hàng loạt nhân dân Việt Nam ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam. nhà nước Quốc gia Việt Nam chưa đủ cơ sở pháp lý , trong thực tiễn để trở thành người đại diện thay mặt cho nhân dân Việt Nam. Do cả nhà nước Pháp và nhà nước Quốc gia Việt Nam không phải chính là người đại diện thay mặt chính danh của nhân dân Việt Nam nên bất kể văn kiện pháp lý tương quan tới nhân dân Việt Nam , quốc gia Việt Nam đã được ký bởi nhà nước Pháp , và nhà nước Quốc gia Việt Nam đều vô giá trị [ 3 ]Cũng theo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, 95 % chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trong thực tiễn vẫn ở dưới quyền của họ nên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới là chính phủ nước nhà chính danh, chính là người đại diện thay mặt hợp pháp cho nhân dân Việt Nam .

Thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc Vĩnh Thụy tự ý thỏa hiệp với Pháp: “Ông Vĩnh Thụy đã trịnh trọng thề trung thành với Tổ quốc, với nhân dân và Chính phủ. Nếu ông ấy cam tâm buôn dân bán nước, thì ông ấy cũng sẽ bị tội phản quốc như các kẻ phản quốc khác… Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa nhìn nhận các cuộc đàm phán ấy (cuộc đàm phán giữa cựu hoàng Bảo Đại cũng như các thành viên trong nội các Quốc gia Việt Nam với Chính phủ Pháp)… Giữa một tư nhân với Chính phủ (các chính phủ hợp hiến ở trên thế giới) cả nước bầu lên, thì có gì chính là sửa đổi mối quan hệ?. Vĩnh Thụy trở về với 10.000 viễn binh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực. m mưu của thực dân Pháp chính là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy thực hiện tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với các người biết cải tà quy chính nhưng cũng sẽ thẳng tay trừng trị các tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân , và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự.[71] Chúng tôi chưa cần gì đến bọn bù nhìn và phản quốc.[72]”

Khi vấn đáp điện phỏng vấn của Dân quốc Nhật báo ( Trung Quốc Dân Quốc ) ngày 3/4/1949, quản trị Hồ Chí Minh đã vấn đáp thắc mắc về hiệp định Elysée như sau :

“Đối với dân Việt Nam, đó chỉ là một tờ giấy lộn. Thứ thống nhất , và độc lập giả hiệu ấy chẳng lừa bịp đã được ai. Ngay nhân dân Pháp và dư luận thế giới cũng đã hiểu rõ và tố cáo điều đó. Lúc nào quân đội thực dân Pháp hoàn toàn rút khỏi đất nước Việt Nam, thì mới có thống số 1 , và độc lập.” [73][74]

Đài Tiếng nói Việt Nam nhận định: “Bước chuyển đến từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” chính là bước chuyển đến từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang thực hiện tay sai cho đế quốc Mỹ… Quân đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại là để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở Đông Dương. Viên tướng tư lệnh Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975, cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó si mê hát Quốc ca Pháp, hô hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp”.[75]

Theo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổng tuyển cử năm 1946 chính là việc khẳng định tính pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như quyền tự quyết dân tộc bản địa của nhân dân Việt Nam. Từ đó cho thấy, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người đã được nhân dân Việt Nam chính thức và hợp pháp trao cho tư cách là người đại diện thay mặt chính danh duy nhất cho nhân dân Việt Nam , và là lực lượng duy nhất có quyền bảo vệ nhân dân Việt Nam [ 76 ] .Theo Từ điển bách khoa quân sự chiến lược Việt Nam ( 2007 ) thì :

“Ngụy quyền chính là chính quyền bản xứ do thế lực nước ngoài dựng lên, nuôi dưỡng, sử dụng thực hiện dụng cụ xâm lược, nô dịch cho họ. Ở Việt Nam, chính quyền Bảo Đại (Quốc gia Việt Nam) , chính quyền Sài Gòn (1954-1975) đều là ngụy quyền (do Pháp , Mỹ dựng lên)” [77].

Hoa Kỳ

Nhà nước Quốc gia Việt Nam hình thành trải qua đàm phán nên nó là mẫu sản phẩm dàn xếp giữa Pháp và Một vài ít chính trị gia Việt Nam chưa ủng hộ nhà nước kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tài liệu của Lầu Năm Góc nhìn nhận chính sách Bảo Đại chưa có tính đại chúng cũng không hiệu suất cao còn quân đội của nó, phụ thuộc vào vào sự chỉ huy của sĩ quan Pháp, thiếu sức mạnh [ 78 ] .Nhà sử học Stephen G. Hyslop tổng kết : các quốc gia được trao trả độc lập độc lập hầu hết là thuộc địa của Anh và Hà Lan, các quốc gia đi theo chủ nghĩa thực dân định cư vốn chưa còn tha thiết duy trì thuộc địa vì thu đã được ít cống phẩm, trong khi đó người Pháp thì ngược lại. Họ là nước đi theo chủ nghĩa thực dân bóc lột , và chưa muốn mất đi cống phẩm đến từ thuộc địa, nên đã nỗ lực tái chiếm thuộc địa tới cùng cho tới lúc bị vượt mặt mới thôi ( như ở Việt Nam và Algérie ) [ 79 ] .

Theo nhà sử học Archimedes L.A Patti: Nước Pháp không bao giờ tỏ ra một chút gì muốn “giải thoát” cho thuộc địa cũ của nó. Ngày 2/5/1945, tại Hội nghị San Francisco, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp G. Bidault tuyên bố chỉ có Pháp mới có quyền quyết định tương lai Đông Dương, rằng quyền ủy trị có thể áp dụng trên các thuộc địa khác chứ chưa thể áp dụng cho Đông Dương[80].

Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại và Bollaert ký kết Hiệp định tại Vịnh Hạ Long trong đó Pháp công bố ” trịnh trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam “, nhưng đặc biệt quan trọng Pháp chỉ giữ lại quyền trấn áp công tác thực hiện việc đối ngoại và quân đội, việc chuyển giao các tính năng khác của cơ quan chính phủ cũng sẽ được xử lý ở các cuộc thương lượng sau. Thực tế Quốc gia Việt Nam chẳng đã được trao cho quyền hành gì. Việt Minh chỉ trích Bảo Đại chính là xấu xa, tội lỗi vì đã lấy lại từ người Pháp chữ ” độc lập ” thần kỳ mà Hồ Chí Minh đã nỗ lực giành giật ở Fontainebleu không được. Đến ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại ký Hiệp ước Elysée, trong đó các bộ phận chủ chốt trong cơ quan chính phủ vẫn do Pháp nắm giữ , cơ cấu tổ chức thuộc địa cũ vẫn còn nguyên vẹn. Bảo Đại đã ký Hiệp định Elysée để nhằm mục tiêu một khi nắm chính quyền sở tại, ông hoàn toàn có thể chơi ván bài quốc tế theo kiểu của ông. Ông đã đặt lòng tin vào sự ủng hộ của Mỹ mà ông kỳ vọng sẽ kiềm chế đã được Pháp , và phân phối cho Việt Nam viện trợ kinh tế tài chính thiết yếu. L.A Patti nhận xét Bảo Đại vừa chính là một nhà chính trị vừa chính là một người dân tộc bản địa chủ nghĩa [ 81 ] .

Tháng 10/1951, nghị sĩ John F. Kennedy – về sau trở thành Tổng thống Mỹ – đã đến Việt Nam để khảo sát. Lúc đó, Mỹ đang tài trợ một cách hào phóng cho chiến tranh của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhưng Kennedy tự hỏi: tại sao viện trợ Mỹ vẫn không thể hỗ trợ cho Pháp chiến thắng? Ông nêu lên một câu hỏi khiến tướng De Lattre, Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương phải tức giận: “Tại sao ông có thể trông mong người Việt Nam (Quốc gia Việt Nam) chiến đấu (chống lại Việt Minh) để duy trì nước họ như một bộ phận của Pháp?”. Về lại Mỹ, Kennedy phát biểu ngày 15-11-1951 ở trên đài phát thanh[82]:

“Các xứ Đông Dương chính là các chính phủ bù nhìn, các lãnh địa của các ông hoàng (chỉ cựu hoàng Bảo Đại và các quốc vương Lào , và Campuchia) thuộc Pháp với tài nguyên to lớn nhưng chính là các thí dụ điển hình của đế quốc và thực dân mà người ta có thể thấy bất kỳ nơi đâu… Ở Đông Dương, mọi người [Mỹ] đang liên kết với nỗ lực tuyệt vọng của một đế chế Pháp muốn bám lấy các mảnh còn lại của đế quốc. Kết quả chính là (chúng ta) không có sự ủng hộ sâu rộng của nhân dân Việt Nam đối với chính phủ bản xứ (tức chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại)”.

Công việc đặt ra trước mắt Bảo Đại khi xây dựng chính phủ nước nhà đầy các trở ngại vất vả : sự ngoan cố của Pháp, sự hờ hững của quần chúng , và sự chống đối về chính trị. Người Pháp trì hoãn một cách có giám sát việc thi hành thoả hiệp Élysée. Quân đội của họ vẫn ở lại Việt Nam, nhân viên cấp dưới hành chính thường xuyên thao tác ở các cấp chính quyền sở tại ; Quốc gia Việt Nam chẳng được trao cho một chút ít quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự nguỵ trang cho nền quản lý của Pháp [ 35 ] .

Pháp

Kỳ thực Pháp coi giải pháp Bảo Đại chỉ chính là do tình thế thúc ép, họ chưa tin yêu và tôn trọng chính phủ nước nhà này .

Năm 1949, Tổng Tham mưu trưởng lục quân Pháp, Đại tướng Revers sau chuyến khảo sát tình hình Đông Dương đã có bản tường trình mật trong đó viết: “Vấn đề điều đình với Việt Nam thì tìm các người quốc gia chống cộng để điều đình. Giải pháp Bảo đại chỉ là một giải pháp thí nghiệm, nhưng chế độ Bảo Đại là một chế độ ung thối với sự tham nhũng, buôn lậu đồng bạc, buôn lậu giấy phép nhập cảng, các khu chứa cờ bạc đĩ điếm…” (Trung tâm du hí Đại thế Giới ở Chợ Lớn đã được chính phủ Bảo Đại cho phép công khai sòng bạc và chứa mại dâm để kiếm chác). Bản tường trình sau đó bị lộ khiến chính phủ Pháp “muối mặt”, và Revers bị cho về hưu non sau khi ra khai trình tại Hội đồng tối cao quân lực. Bản thân Bảo Đại cũng nhận xét rằng: “Cái đã được gọi là biện pháp Bảo Đại hóa ra là biện pháp của người Pháp.” [10]

Trên thực tế, Hiệp ước Elysée quy định về quân sự: “Trong thời chiến, toàn thể quân đội Việt Nam và Liên hiệp Pháp được đặt chung dưới quyền chỉ huy của Uỷ ban quân sự mà Tư lệnh cũng sẽ là một sĩ quan Pháp có một Tham mưu trưởng phụ tá.”

Hơn nữa, chính Pháp trước đó cũng đã ký với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946 và Tạm ước Việt – Pháp, với các hứa hẹn tương tự cũng sẽ công nhận Việt Nam là “nước tự do” thuộc Liên hiệp Pháp. Nhưng sau đó hai bên tiếp tục có các xung đột quân sự tại Hải Phòng , và Hà Nội. Khi Pháp gửi tối hậu thư đòi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ Hà Nội , trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh tại Hà Nội, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối nhượng bộ. Ngay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến[83].

Người Pháp nhận thức rằng sự sụp đổ của mạng lưới hệ thống thuộc địa ở trên khoanh vùng phạm vi quốc tế chính là một khuynh hướng thực tiễn nhưng với tư cách một cường quốc, người Pháp thường xuyên tăng nhanh cuộc chiến tranh, nhằm mục tiêu tìm cho nước Pháp ” một lối thoát danh dự ” ra khỏi đại chiến tại Việt Nam. các người Pháp ủng hộ đại chiến cho rằng nếu Pháp để mất Đông Dương, chiếm hữu của Pháp tại hải ngoại sẽ nhanh gọn bị mất theo [ 84 ]. Chính cho nên vì thế Pháp cố lê dài đại chiến cho đến năm 1954, cho tới khi bị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vượt mặt ở trận Điện Biên Phủ .Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, đã được phái sang Việt Nam để khảo sát , và điều tra tình hình ( tháng 5, 6 năm 1949 ) , sau đó đã viết :

“Hồ Chí Minh đã có năng lực chống cự lại với sự can thiệp của Pháp lâu đến như thế, chính là vì nhà lãnh đạo Việt Minh đã biết tập hợp chung quanh mình một nhóm các người thực sự có năng lực… Ngược lại, Bảo Đại đã có một chính phủ gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng phái ma, trong số đó đảng mạnh số 1 cũng khó mà đếm đã được 25 đảng viên” [34].

Đối với mạng lưới hệ thống thuộc địa của Pháp, Hiến pháp Pháp năm 1946 pháp luật Liên hiệp Pháp gồm có Pháp, các chủ quyền lãnh thổ hải ngoại của Pháp , các nhà nước tương quan ( Điều 60 ). Tình trạng của từng quốc gia thuộc Liên hiệp Pháp nhờ vào vào các điều ước quốc gia này ký kết với Pháp lao lý mối quan hệ với Pháp ( Điều 61 ) [ 85 ]. Sau thất bại tại Điện Biên Phủ và việc ba nước Đông Dương giành độc lập trọn vẹn, tại các thuộc địa khác của Pháp như Algérie, Cameroon, Maroc , và Tunisia, các lực lượng chính trị cũng tổ chức triển khai nổi dậy đòi độc lập theo gương người Việt Nam, việc duy trì Liên hiệp Pháp trở nên rất nhiều trở ngại vất vả. Năm 1958, Cộng đồng Pháp khai sinh , Liên hiệp Pháp chấm hết sống sót. Điều 86 Hiến pháp Pháp ( năm 1958 ) lao lý mỗi quốc gia hội viên thuộc Cộng đồng Pháp hoàn toàn có thể độc lập sau khi ký kết các hiệp ước với Pháp và có quyền lựa chọn vẫn chính là hội viên của Cộng đồng Pháp hoặc ra khỏi khối [ 86 ]. Trong thập niên 60, các nước thuộc Cộng đồng Pháp như Algérie, Tunisia , và Maroc lần lượt ký kết hiệp ước với Pháp để công bố độc lập. Đến năm 1967, Pháp ký hiệp định trao trả độc lập cho phần nhiều các thuộc địa của mình. Cũng trong xu thế phi thực dân hóa trên quy mô toàn thế giới, chỉ trong năm 1960, 17 nước thuộc địa châu Phi công bố độc lập .

Việt Nam Cộng hòa

Sách giáo khoa Lịch sử lớp nhất của Việt Nam Cộng hòa được xuất bản năm 1966 nhận định , và đánh giá rằng cơ quan chính phủ Bảo Đại chỉ chính là một mánh khóe lừa gạt của Pháp [ 87 ] :

Vì quyền lợi của Pháp , và Việt Nam chống đối nhau nên cuối năm 1946 chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Quân Pháp lần hồi chiếm đóng các thành thị. Người Việt yêu nước rút ra bưng biền tổ chức trường kỳ kháng chiến.

Năm 1949, Pháp rước Bảo Đại từ Trung Hoa về lập chính phủ, mong lôi kéo người Quốc gia. Nhưng mánh khóe của Pháp không lừa gạt đã được chiến sĩ Việt Nam. Cuộc kháng chiến ngày càng mãnh liệt , và đến tháng 5-1954, quân Pháp đại bại tại Điện Biên Phủ, phải kêu gọi hòa bình. Việt Minh lúc này lại đứng ra cùng Pháp ký Hiệp định Genève (20-7-1954) chia đôi đất nước: đến từ sông Bến Hải ra Bắc thuộc Việt Minh, đến từ sông Bến Hải vào Nam thuộc chánh phủ Quốc gia.

Xem thêm: Tìm hiểu tính năng AOD – màn hình luôn hiển thị ở trên smartphone

Tuy vậy, sách chưa ghi về việc cơ quan chính phủ Bảo Đại là tiền thân của Việt Nam Cộng hòa, không ghi về việc chính Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt mặt Pháp tại Điện Biên Phủ mà chỉ ghi chung chung là ” chiến sỹ Việt Nam “. Sách cũng bóp méo nội dung Hiệp định Genève chính là ” chia đôi quốc gia ” ( thực ra Hiệp định Genève chỉ chia Việt Nam thành 2 vùng tập trung quân sự chiến lược trong thời điểm tạm thời, sau đó chính Việt Nam Cộng hòa phủ nhận thi hành hiệp định nên mới dẫn tới thực trạng Việt Nam bị chia đôi ) .

Xem thêm

Tham khảo

Đọc thêm

Reilly, Brett (2018). The Origins of the Vietnamese Civil War and the State of Vietnam (PhD). University of Wisconsin–Madison.

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin