Kỳ lân (phương Tây) là gì – Wikipedia tiếng Việt

Kỳ lân (hay Unicorn) trong văn hóa châu u hay còn gọi là Ngựa một sừng là một sinh vật thần thoại, với hình dáng phổ biến được biết đến như là con ngựa trắng có một sừng trên trán (hoặc có thể có 2 cánh). Tuy vậy, kỳ lân truyền thống còn có thêm chòm râu dê, đuôi sư tử, và bộ móng xẻ như trâu bò khiến nó khác biệt với một con ngựa thông thường[1].

Kỳ lân cổ xưa

Tượng đồng kỳ lân thời Hán

Hình tượng con vật một sừng đã được tìm thấy trên một số con dấu từ văn minh lưu vực sông Ấn.[2] các con dấu với thiết kế như vậy được cho là mang dấu hiệu của vai vế cao cấp trong xã hội thời đó.[3] Một con vật được gọi là Re’em (tiếng Hebrew: רְאֵם, có nghĩa là “Tê giác“) được đề cập tới tại một số phần trong Kinh thánh Hebrew, thường như là một ẩn dụ đại diện cho sức mạnh. đây chính là con vật thường được mô tả trong nghệ thuật nền văn minh Lưỡng Hà cổ xưa, chỉ với một sừng nhìn thấy được.[4]. các bản dịch Kinh Thánh (1611) có thẩm quyền của King James, đã lấy từ Unicorn, vàhay kinh Hy Lạp lấy từ monokeros và kinh La Mã lấy từ unicornus, để dịch từ Re’em, cung cấp một loài vật một sừng không thể thuần hóa mà dân gian có thể nhận ra được.

Bạn đang đọc: Kỳ lân (phương Tây) là gì – Wikipedia tiếng Việt

Kỳ lân không được tìm thấy trong thần thoại Hy Lạp, mà đúng hơn là trong các lĩnh vực của lịch sử tự nhiên. Các học giả Hy Lạp về lĩnh vực lịch sử tự nhiên đã cho rằng thực tế kỳ lân sống tại Ấn Độ, một vương quốc xa xôi và tuyệt vời dành cho chúng. Mô tả sớm nhất là từ Ctesias, người đã miêu tả chúng như là các con lừa hoang dã, rất nhanh chân, vàcó một sừng dài chừng một cubit rưỡi (khoảng 70 cm) và lông màu trắng, đỏ hoặc đen.[5] Aristotle đã theo Ctesias sau khi ông đề cập đến một trong hai loài động vật một sừng, các con oryx (một loại linh dương) và cái gọi là “lừa Ấn Độ”.[6][7]

Kỳ lân (phương Tây) là gì – Wikipedia tiếng Việt

Strabo cho biết, ở vùng Kavkaz ( tại Trung Đông ) có loài ngựa một sừng với cái đầu giống loài nai. Pliny thì đề cập đến các con oryx và bò Ấn Độ ( hoàn toàn có thể là một con tê giác ) là một trong các con thú một sừng, cũng như “ con vật rất hung ác gọi là monoceros có chiếc đầu của nai, bàn chân của voi và đuôi của heo rừng, trong khi phần còn lại của khung hình lại tựa như như của ngựa và có một sừng đen đâm ra từ giữa trán dài tầm hai cubit ”. Trong khi đó, kỳ lân ( 麒麟 ) trong văn hóa truyền thống Trung Hoa lại là một sinh vật gần giống con Chimera ( thần thoại cổ xưa ), với mình nai, đầu sư tử, vảy xanh lục và chiếc sừng cong dài hướng về phía trước. Cụ thể xem bài viết về kỳ lân. Phiên bản trong văn hóa truyền thống Nhật, Kirin, vàgiống với kỳ lân phương Tây hơn, vàngay cả khi nó được dựa trên kỳ lân Trung Quốc .

Kỳ lân thời Trung cổ

Thiếu nữ hoang dã bên kỳ lân (1500-1510), Bảo tàng lịch sử Bức ( 1500 – 1510 ), Bảo tàng lịch sử dân tộc Baselcác kiến thức thời Trung cổ về loài sinh vật này bắt nguồn từ Kinh Thánh và các nguồn cổ xưa về các sinh vật giống lừa hoang dã, dê, hay ngựa. các câu truyện ngụ ngôn về quái vật thời Trung cổ đã phổ cập một hình tượng tinh xảo, trong đó con kỳ lân được Maria Đồng Trinh Maria nuôi giữ. Ngay khi con kỳ lân nhìn thấy bà, nó ngả đầu vào lòng bà và thiếp ngủ. Điều này trở thành một hình tượng cơ bản làm cơ sở cho các ý niệm về loài kỳ lân, vàchứng tỏ sự Open của nó trong mọi hình thức nghệ thuật và thẩm mỹ tôn giáo. Hai lý giải chính cho hình tượng kỳ lân trong Ngoại giáo và Công giáo khác nhau. Diễn giải của Ngoại giáo tập trung chuyên sâu vào tri thức Trung cổ về Những người tình dối lừa, trong khi 1 số ít bản viết Công giáo lý giải cái chết của kỳ lân như các khổ hình của Chúa Kitô . Tượng Eenhoorn, vànguyên mẫu của kỳ lân một sừng, trông giống con tê giác

Kỳ lân từ lâu đã được xác định là một biểu tượng của Chúa Kitô trong Công giáo, cho phép các biểu tượng ngoại giáo truyền thống của kỳ lân được chấp nhận trong học thuyết tôn giáo. Các huyền thoại nguyên bản chỉ đến một con thú với một sừng mà chỉ có thể được thuần dưỡng bởi một thiếu nữ đồng trinh; sau đó, một số học giả Công giáo cho điều này thành một biểu tượng cho mối quan hệ của Chúa Kitô với Maria Đồng trinh Maria. Điều thú vị là, thuật ngữ tập thể cho một đàn kỳ lân đã được đề xuất như là “một phước lành của kỳ lân” (tiếng Anh: a blessing of unicorns). Cùng với sự gia tăng của chủ nghĩa nhân văn, vàkỳ lân còn mang biểu tượng của tình yêu trong sáng và hôn nhân chung thủy.

Kỳ lân được cho là chỉ được thuần dưỡng bởi các trinh nữ. Điều này được phổ biến trong các câu chuyện dân gian thời Trung cổ. các con kỳ lân được cho là có thể Nhận biết được một người phụ nữ còn trinh hay không. Trong một số câu chuyện, vàkỳ lân chỉ được cưỡi bởi trinh nữ. Trong khi đó, Marco Polo đã miêu tả chúng là “… nhỏ hơn con voi một chút. Chúng có bộ lông như trâu và bàn chân thì giống của voi. Chúng có một cái sừng đen ở giữa trán… Chúng có cái đầu giống loài lợn lòi hoang dã… Chúng dành phần thời gian đầm mình vào bãi bùn. Trông chúng rất bẩn thỉu. Chúng không giống tất cả các gì mà chúng ta đã miêu tả khi liên hệ với việc chúng được nuôi dưỡng bởi các trinh nữ, thực sự trái ngược với ý niệm của chúng ta”, rõ ràng là Marco Polo đang nói đến một con tê giác. Tại Đức, từ thế kỷ 16, từ Einhorn (tiếng Anh: one-horn, vàtiếng Việt: một sừng) đã miêu tả một vài loài tê giác. Người Na Uy cổ thì tin rằng kỳ lân biển đã xác minh sự tồn tại của kỳ lân. Sừng của kỳ lân biển được cho là xuất phát từ một chiếc răng của hàm trên và phát triển ra bên ngoài. Theo Ngài Thomas Browne, sừng kỳ lân có thể trung hòa chất độc, nên được dùng làm ly trong các nghi lễ. Thậm chí, ngai vàng hoàng gia Đan Mạch cũng được cho là làm bằng sừng kỳ lân.

Săn bắt kỳ lân

Một phương thức truyền thống để săn kỳ lân là bẫy chúng bằng một trinh nữ. Leonardo da Vinci viết trong sổ ghi chú của ông: Kỳ lân, vàngoài thái độ không đúng mức và không biết cách kiểm soát bản thân, vàvới tình cảm hướng tới các trinh nữ đã khiến nó quên đi tính dữ tợn và hoang dại; để đi tới và nằm ngủ trong lòng các thiếu nữ. Sau đó, người thợ săn chỉ việc tới bắt chúng[10]

Thời Gothic, hàng loạt bộ bảy chiếc thảm thêu về Việc săn bắt kỳ lân đã trở nên nổi tiếng và là một mũi nhọn đắt giá trong ngành sản xuất thảm châu u, kếp hợp cả hai chủ đề thế tục và tôn giáo. Hiện nay, các tấm thảm thêu như vậy được treo tại Tu viện của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, vàthành phố New York.

Trong loạt thảm này là hình ảnh các quý tộc giàu sang, được hộ tống bởi các thợ săn và chó săn, vàđuổi theo một con kỳ lân trên một phông nền hoa hay các tòa nhà và khu vườn. Họ bắt con thú vào lồng với sự hỗ trợ đỡ của một thiếu nữ và đem nó trở về lâu đài. Ở bản cuối cùng và cũng là bản nổi tiếng nhất, “Con kỳ lân trong vòng câu thúc”, nó vẫn sống vui vẻ bên cạnh một cây lựu, bao quanh là hàng rào, trên một cánh đồng hoa. Các học giả phỏng đoán rằng các vết đỏ trên sườn của nó không phải là máu mà đúng hơn là nước từ trái lựu đang rỏ xuống, đây chính là một biểu tượng của khả năng sinh sản. Tuy vậy, ý nghĩa thực sự của con kỳ lân phục sinh đầy bí ẩn trong tấm thảm cuối cùng là vẫn chưa rõ ràng. Phiên bản này được dệt vào khoảng các năm 1500 tại Vùng đất trũng, có thể là Brussels hoặc Liége.

Một bộ sáu chiếc thảm nổi tiếng khác là Thiếu nữ với kỳ lân (tiếng Pháp: Dame à la licorne) đang được trưng bày trong Bảo tàng quốc gia Trung Cổ, Paris, cũng được dệt tại miền Nam Hà Lan trước năm 1500. Bản sao của các tấm thảm kỳ lân hiện đang được dệt lại cho mục đích trưng bày lâu dài trong lâu đài Stirling, Scotland, để thay thế cho phiên bản vào thế kỷ 16.

Trên huy hiệu, kỳ lân được miêu tả như một con ngựa với móng xẻ và bộ râu của dê, đuôi của sư tử, và một chiếc sừng xoắn ốc mảnh mai trên trán. Tuy là một hình tượng của sự Hiện thân, vàkỳ lân không sớm sử dụng thoáng rộng trên huy hiệu, và chỉ trở nên phổ cập từ thế kỷ 15. Nó được biết đến nhiều nhất trong huy hiệu hoàng gia của Scotland và Vương Quốc Anh . Năm 1663, trong số nhiều mẩu xương thời tiền sử được tìm thấy ở Einhornhöhle tại vùng núi Harz Đức, một số ít đã được lựa chọn và lắp ráp lại thành một con kỳ lân bởi Ngài Otto von Guericke vùng Magdeburg. Trên thực tiễn, vàcon vật được gọi là kỳ lân của Guericke chỉ có hai chân, vàvà được ghép lại từ xương hóa thạch của một con tê giác lông mịn và voi ma mút, với cái sừng của một con kỳ lân biển. Bộ xương này được kiểm tra bởi Gottfried Leibniz, người trước đó đã hoài nghi sự sống sót của kỳ lân, vànhưng được thuyết phục bởi nó. Nam tước Georges Cuvier chủ trương, vì kỳ lân có bộ móng chẻ nên nó phải có một hộp sọ chẻ, để chiếc sừng duy nhất hoàn toàn có thể tăng trưởng được. Như để bác bỏ điều này, Tiến sĩ W. Franklin Dove, giáo sư Đại học Maine, đã hợp nhất các chồi sừng của một con bê với nhau, tạo ra hình dáng bên ngoài của một con bò một sừng. Kể từ khi tê giác là động vật hoang dã trên cạn còn sống sót duy nhất có một sừng, nó nhiều lúc được coi là nguồn gốc của thần thoại cổ xưa kỳ lân, vàbắt nguồn từ cuộc đọ sức giữa các động vật hoang dã châu u kỷ băng hà và tê giác lông mịn, vàhoặc là thần thoại cổ xưa hoàn toàn có thể đã được dựa trên tê giác của châu Phi .

Văn minh sông Ấn

Các đối tượng người dùng tiên phong khai thác từ Harappa và Mohenjo-daro là các con dấu nhỏ bằng đá khắc các hình con thù khá thanh nhã, gồm có một hình giống với con kỳ lân ở phía trên, vàbên trái, và lưu lại bằng chữ Indus, các ký tự hiện vẫn gây trở ngại so với các học giả. các con dấu này được đề 2500 TCN. Nguồn : Đại học North Park, Chicago, Illinois. ( Hình : Con dấu Harappa. ) Con dấu này là một cận cảnh của loài động vật hoang dã giống kỳ lân, vàđược tìm thấy tại Mohenjo-daro, dài 29 mm ( 1,14 inch ) mỗi cạnh và được làm bằng khoáng chất Steatite nóng. Steatite là một hòn đá được chạm khắc mềm mại và mượt mà một cách thuận tiện mà trở nên cứng sau khi nung nóng. Trên đầu là bốn chữ tượng hình Indus chưa được giải thuật, là một trong các mạng lưới hệ thống văn bản tiên phong trong lịch sử dân tộc. ( Hình : Kỳ lân Harappa. )

Tê giác cổ

Một gợi ý là kỳ lân dựa trên loài động vật hoang dã đã tuyệt chủng, elasmotherium, một loài tê giác Á- u lớn mang nguồn gốc ở các thảo nguyên, vànằm phía nam của khoanh vùng phạm vi tê giác lông mịn ở Kỷ băng hà châu u. Elasmotherium nhìn giống như ngựa một chút ít, nhưng nó có một sừng lớn duy nhất ở trán của nó. Tuy vậy, theo Sách mái ấm gia đình Bắc u và nhà khoa học Willy Ley, loài vật đó hoàn toàn có thể đã sống sót đủ lâu để được nhớ trong truyền thuyết thần thoại của Những người Evenk của Nga như là một con bò đen khổng lồ với một sừng trên trán và duy nhất. Trong sự ủng hộ này, một điều đã được ghi nhận rằng, vào thế kỷ 13, nhà thám hiểm Marco Polo công bố đã thấy một con kỳ lân tại Java, nhưng miêu tả của ông rõ ràng làm cho người đọc tân tiến nhận ra ông thực sự nhìn thấy một con tê giác Java .

Kỳ lân biển

Tượng đá về con kỳ lân

Năm 1638, Ole Worm, nhà sinh vật học Đan Mạch phát biểu, sừng của kỳ lân thường thấy trong Phòng nội các của các ham biết thời Trung cổ và châu u Phục Hưng, là các thí dụ rất thường xuyên về chiếc ngà đơn, vàdài và xoắn ốc của kỳ lân biển Monodon monoceros thuộc bộ Cá voi Bắc Băng Dương.[13] Chúng được mang về phía Nam như là một món hàng thương mại rất có giá trị, và được bán như sừng của kỳ lân huyền thoại. Là một chiếc ngà, chúng qua được rất nhiều các xét nghiệm khác nhau nhằm làm giảm giá trị của sừng kỳ lân giả. Vì các chiếc sừng được xem là mang quyền hạn của phép thuật, người Viking và các thương gia miền Bắc có thể bán chúng đắt hơn cả vàng.

Nữ hoàng Elizabeth I của Anh cũng giữ một chiếc sừng kỳ lân trong Phòng nội các của các ham biết của bà, chiếc sừng được Martin Frobisher, nhà thám hiểm Bắc Băng Dương, mang về trong chuyến trở về từ Labrador vào năm 1577.[14] Các mô tả thông thường của chiếc sừng kỳ lân xoắn ốc trong nghệ thuật, bắt nguồn từ đó. Sự thật về nguồn gốc chiếc ngà phát triển dần dần trong kỷ nguyên khám phá, khi các nhà thám hiểm và nhà tự nhiên học bắt đầu chuyến thăm thú khu vực và lĩnh vực của mình. Năm 1555, Olaus Magnus xuất bản một bản vẽ của sinh vật giống cá có sừng trên trán.

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin