Thuật ngữ Công Giáo: Mặc khải hay mạc khải

Chia sẻ

GlimpseGlorifiedChristMặc khải là Thiên Chúa tỏ bày mầu nhiệm của Người cho nhân loại qua trung gian loài người như ông Môsê, ông Êlia, nhất chính là qua Chúa Giê-su. Đến lượt mình, Chúa Giêsu lại tỏ cho các Tông Đồ biết mọi bí nhiệm, ý định của Thiên Chúa“[1].

Thuật ngữ Công Giáo: Mặc khải hay là mạc khải

Ở đây, yếu tố chúng tôi muốn khám phá chính là vì trong tiếng Việt, ngoài thuật đến từ “ mặc khải ” còn có “ mạc khải ” ( cả hai đều dịch đến từ chữ La Tinh chính là revelatio, có nguồn gốc đến từ chữ Hy Lạp chính là apocalypsis ) để diễn đạt việc “ Thiên Chúa tỏ bày mầu nhiệm của Người cho trái đất ” .

Bạn đang đọc: Thuật ngữ Công Giáo: Mặc khải hay mạc khải

1. Nguyên ngữ apocalypsis, revelatio.

Mặc khải hay mạc khải dịch từ chữ La Tinh là revelatio, gốc đến từ chữ Hy Lạp là apocalypsis .

1.1. Apocalypsis, có tiếp đầu ngữ apo- nghĩa là cách, tách biệt, khỏi (off, from, away); calypsis có nghĩa chính là che, phủ (cover). Như vậy, apocalypsis nguyên nghĩa chính là vén màn che lên (lifting of the veil), tức chính là tỏ ra cho biết, cho thấy.

1.2. Revelatio :Danh từ velum trong La ngữ có nghĩa là: Mạng che mặt, khăn trùm hay là tấm màn (trước thế kỷ XIII: Pháp: voile; Anh: veil). Từ đó có động từ velare nghĩa là: che phủ, che đậy, giấu kín (thế kỷ XIV: Pháp: voiler, couvrir; Anh: to veil, to cover) , và revelare (với tiếp đầu ngữ re- hàm nghĩa là: phản nghĩa với) nghĩa là: bỏ mạng che mặt, cất màn; nghĩa rộng là: khánh thành; trình bày công khai; để lộ, tiết lộ (Pháp: dévoile, découvrir; Anh: unveil, uncover). Từ hậu bán thế kỷ XIV, revelare đã được dịch sang tiếng Pháp là reveler , và tiếng Anh là reveal có nghĩa là: bộc lộ, tiết lộ (điều bí mật); phát hiện, khám phá (vật bị giấu…). Vào khoảng năm 1230, tựa đề quyển sách cuối cùng của Thánh Kinh được chuyển sang tiếng Anh là Apocalypse. Khoảng năm 1380, John Wiclif (Tin Lành) dịch tựa đề sách này là Revelation. Thời Trung Cổ, đến từ này có nghĩa là “insight, vision, hallucination” (thấu thị, thị kiến, ảo giác); ngày nay có nghĩa chính là “A cataclysmic event” (Một cuộc hồng thủy hay câu chuyện về ngày tận thế)[2].

Revelatio có nghĩa[3]: (1) Hành vi vén mở, tiết lộ. (2) Các việc trước đây chưa được biết đến, nay đã được biết đến. (3) (Về mặt thần học): (a) Chúa để lộ ra chính mình Chúa , thánh ý Chúa cho các loài thụ tạo. (b) Trường hợp truyền đạt hay là tiết lộ. (c) Những việc đã được truyền đạt hay là tiết lộ. (d) Những gì chứa đựng việc tiết lộ này, như Thánh Kinh. (4) Khi viết hoa, là chỉ cuốn Khải Huyền của Thánh Gioan.

1.3. Hành trình đến Viễn Đông

Tại Viễn Đông, những nhà truyền giáo trong những thế kỷ đầu thường dùng những lý lẽ tự nhiên và những triệu chứng cứ thực tiễn, đơn cử , dễ hiểu để trình diễn đức tin Kitô Giáo. Các ngài rất ít khi viện dẫn tới những ý niệm thuộc siêu hình học hay thần học kinh viện cao xa. Vì thế, ý niệm về revelatio vắng mặt trong những tác phẩm như Phép Giảng Tám Ngày [ 4 ] , Từ Điển Việt-Bồ-La [ 5 ] của cha Đắc Lộ ( xuất bản năm 1651 ) cũng như những thuật đến từ khải huyền, mạc khải hay mặc khải đều không có trong những tự điển, tự vị trước năm 1896 như Dictionarium Annamitico Latinum của Đức cha P.J. Pigneaux ( 1772 ) Dictionarium Anamitico-Latinum của Đức cha Taberd ( 1838 ), Đại Nam Quấc m Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của ( 1895 – 1896 ) .Có người cho rằng thừa sai Giêrônimô Majorica, S.J. chính là người tiên phong đã dịch từ révélation sang chữ Nôm chính là khải mông [ 6 ] trong cuốn giáo lý Công Giáo tiên phong của Nước Ta chính là “ Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông ” ( năm 1623 ). Điều này không đúng, vì cuốn này tuy là bản dịch ra chữ Nôm của cuốn Controverses [ 7 ] của Thánh Hồng Y Robert Bellaminô soạn năm 1581 – 1593, nhưng tựa đề của nó chính là do cha Majorica tự đặt ra và chính ngài giải nghĩa chữ khải mông là “ lời Kết luận mọi sự Đức Chúa Giêsu truyền xưa ” ( x. đoạn I ) còn nội dung bên trong thì không có chỗ nào dùng thuật đến từ révélation cả .Có lẽ Julien Thiriet chính là người tiên phong ghi nhận ý nghĩa đại trà phổ thông của đến từ revelatio chính là “ sự tỏ ra, bày tỏ ra ” trong cuốn Tự vị Latinh-Annam [ 8 ] xuất bản năm 1868, tiếp theo là P.G. Vallot [ 9 ] ( năm 1898 ). Đồng thời gian này, Genibrel [ 10 ] ghi nhận révélation đã được dịch chính là mặc chiếu, mặc thị. Cha Cố Chính Linh trong bản dịch Thánh Kinh ( 1914 – 1916 ) cũng dịch đến từ này theo nghĩa phổ thông là “ tỏ ra, tỏ hiện, hiện ra, hiện đến, soi sáng ”. Trong Tân Ước ( bản Vulgata ) chữ apocalypsis Open 3 lần, cha Cố Chính Linh dịch là “ tỏ sự kín nhiệm ” ( 1 Cr 14,26 ) và “ khải huyền ” ( tựa sách Kh , Kh 1,1 ), , và ngài chú thích : “ Apocalysis nghĩa chính là bày tỏ ra sự gì kín nhiệm hay là sự gì không biết : Revelatio, khải thị, khải huyền v.v … ”. Bản dịch Thánh Kinh năm 1932 của cụ Phan Khôi cũng dùng chữ tỏ ra ( revelation ) , và sự mặc thị, mặc thị lục ( apocalypsis ). Chúng tôi chưa tìm thấy chữ khải huyền trong tài liệu nào trước đó ( 1914 ) tại Nước Ta cũng như Trung Quốc .

2. Nghĩa chữ khải

Khải có những chữ Hán : 凱 ( 凯 ), 剴 ( 剀 ), 啟 ( 啓, 启 ), 塏 ( 垲 ), 豈 ( 岂 ), 愷 ( 恺 ), 楷, 覬, 鍇 ( 锴 ), 鎧 ( 铠 ), 闓 ( 闿 ), 卡, 咳 ( cũng đọc là khái ), 磕 ( cũng đọc chính là khái ), 綮 ( 棨 ) ( cũng đọc chính là khể ), 榼 ( cũng đọc là khạp ), , và những chữ Nôm : 凯, 凱, 剀, 剴, 启, 啓, 垲, 塏, 愷, 揩, 鎧. Trong thuật đến từ mạc khải, mặc khải hay khải huyền, khải là chữ啟 .Chữ khải 啓giáp cốt văn là :Chữ này do ba chữ cấu thành : ( môn : cửa ), ( thủ : tay ), ( khẩu : miệng ), mang nghĩa một bàn tay mở cửa ra, rồi thuyết giáo .Nghĩa gốc là ‘ mở ’, như Tả Truyện : “ Môn khải nhi nhập : cửa mở cứ vào ”. Nghĩa được lan rộng ra thành ‘ chỉ đường ’, như Luận Ngữ : “ Bất phẫn bất khải, bất phi bất phát ( 不憤不啟. 不悱不發 ) : Đối với học viên, phải chờ đến khi chúng không nghĩ ra, mới gợi ý ; chờ đến khi chúng chưa nói ra được mới lý giải ”. Trong tiếng Hán tân tiến, mặc cũng có nghĩa chính là ‘ trần thuật ’, ‘ thông tin ’. [ 11 ]Khải啟 có những nghĩa : ( đt. ) ( 1 ) Mở : Khải môn ( Open ). ( 2 ) Mở mang đất đai : Đại khải Nam Dương ( mở mang Nam Dương rất nhiều nhiều ). ( 3 ) Mở trí, chỉ dạy : Khải đạo ( hướng dẫn chỉ dạy ). ( 4 ) Bày tỏ, giải bầy : Khải sự ( giải bầy việc làm ). ( 5 ) ( cũng đọc là khởi ) Bắt đầu : Khải lễ ( mở màn nghi thức ), khải hành ( mở màn đi ). ( 6 ) Báo tin ( cổ văn ) : Kính khải giả ( Xin báo cáo giải trình ). ( dt. ) ( 7 ) Tờ viết ( cổ văn ) : Tạ khải ( thư cám ơn ). ( 8 ) Từ ngữ viết thư, viết sau họ tên người nhận thư : XX đài khải ( kính thư XX ). ( 9 ) Họ Khải. ( 10 ) Phiên âm của hành tinh venus : Khải minh tinh .

3. Nghĩa chữ mặc , và mặc khải

3.1. Mặc có các chữ Hán: 默, 墨, 万, 纆, 嘿, 嚜; , các chữ Nôm: 默, 袙, 嚜, 墨. Trong thuật đến từ mặc khải, mặc là chữ默. Chữ mặc (默) gồm bộ khuyển (犬) , chữ hắc (黑), 黑 cũng dùng làm hình thanh, chỉ tối tăm, trong bóng tối. Nên nghĩa gốc chỉ con chó lén lút tấn công người. Tấn công ngầm thường chưa có tiếng động, nên chữ mặc còn có nghĩa là ‘im lặng, không lên tiếng’; nghĩa rộng chính là ‘lặng lẽ, tĩnh mịch, đen tối, trong bóng tối’ [12].

Mặc默, chữ Hán có nghĩa: (pht.) (1) Im (im lìm, im lặng, không nói ra, thực hiện thinh, chưa lên tiếng): Mặc đảo (cầu nguyện thầm), mặc niệm (đọc thầm trong bụng), mặc toạ (ngồi im), mặc tụng (đọc chưa ra tiếng, lầm rầm). (2) Thầm kín (âm thầm, kín đáo, ngấm ngầm): Mặc cải chính trị (cải cách chính trị cách âm thầm), mặc thị (ra hiệu lén = tỏ ý một cách kín đáo, signal), mặc nhận (thầm nhận = ưng thuận cách ngấm ngầm). (3) Nhớ (thuộc lòng, nằm lòng): Mặc ký (nhớ trong lòng), mặc tả (viết thuộc lòng), mặc thức (ghi nhớ trong lòng), mặc toán (tính rợ, tính trong bụng). (4) (dùng kết hợp): Mặc mặc (im im = dáng buồn so); u mặc (có tính hài hước nhẹ nhàng). dt. (5) Họ Mặc.

Mặc Trong tiếng Hán tân tiến, cũng có nghĩa là trần thuật, thông tin [ 13 ] .

Mặc默, chữ Nôm có nghĩa: Nín lặng, chưa thèm nói đến; để tuỳ tiện, không kể đến: mặc ai, mặc bay, mặc dầu, mặc ý, mặc lòng, mặc sức, mặc tình, mặc xác, mặc kệ = mặc đời, phó mặc.

3.2. Mặc khải (révélation), có nghĩa : (1) Tỏ lộ những điều bí ấn, khó hiểu. (2) Chỉ những sách có công tác đó.[14]

4. Từ “mặc khải”… đến “mạc khải”

Năm 1956, theo sự phân công của của Ban Từ Ngữ Chuyên Môn trong Họp Báo Hội nghị Thống Nhất Ngôn Ngữ Hồ Chí Minh ( đến từ ngày 5/9 – 3/10 ), Lm. Gioan Maria Trần Văn Hiến Minh ( sau này chính là Đức ông ) đã được bầu làm trưởng ban đồng thời đặc trách Tiểu Ban Danh Từ Triết Học. Cuốn Từ Điển , Danh Từ Triết Học mà ngài xuất bản năm 1966 là hiệu quả của tiểu ban này sau gần 10 năm biên soạn, trong đó chúng tôi thấy có thuật đến từ mạc khải [ 15 ]. Vậy chúng tôi suy đoán rằng thuật đến từ mạc khải chính là do Đức Ông Hiến Minh tạo ra. Trước thời hạn này, ngài dùng từ mặc khải trong những tác phẩm của mình [ 16 ] nhưng về sau thì ngài đã biến hóa bằng từ mạc khải [ 17 ]. Vài năm sau, hàng loạt sách quan trọng đã dùng đến từ mạc khải thay cho mặc khải có đến từ trước, như : Hai bản dịch những văn kiện Công Đồng Chung Vaticanô II của cha Trần Văn Thông, Senatus TP HCM ( xb. năm 1969 ) và của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X ; bộ Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X ; Tân Ước của cha Nguyễn Thế Thuấn , đặc biệt quan trọng là bộ Sách Bài Đọc, Sách Lễ Rôma, Sách Lễ Giáo Dân của Uỷ Ban Giám Mục về Phụng Vụ … toàn bộ đều xuất bản trong năm 1971. Đến nay, ngoài cuốn Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo của cha Hồng Phúc ( xb. 1996 ) và Tự Điển Đức Tin Kitô Giáo Pháp Việt ( bản dịch khuyết danh, xb. 2001 ? ) còn dùng thuật từ mặc khải, những đến từ điển Công Giáo khác đều dùng đến từ mạc khải mà thôi .

5. Chữ “mạc” viết thế nào?

Rất tiếc là tất cả mọi người không biết người tạo ra thuật từ mạc khải đã muốn dùng chữ mạc nào trong tiếng Hán. Vì vậy mà có người cho rằng chữ mạc trong mạc khải là 幕 ( mạc莫thêm chữ cân 巾, nghĩa là cái màn幕 ) ; người khác [ 18 ] thì cho chữ mạc chính là 漠 ( mạc莫thêm bộ thuỷ 氵, có nghĩa chính là yên lặng 漠 ) ; hoặc mạc cũng chính là chữ mặc 默 trong mặc khải ?

Trong Dictionnaire Annamite Français của J.F.M. Genibrel, xb. 1898, tr. 434 có ghi:” 默MẠC. (= Mặc), 1. Solitude, f. Silence, m. Se taire, r. 2.Mạc tưởng, Méditer, a. Mạc thổn, Considérer, a. Cung mạc tư đạo, Méditer sur ses devoirs dans un.”

( Nguồn : J.F.M. Genibrel, Dictionnaire Annamite Français, 1898, tr. 434 )

Trang 442: “默 MẶC. (Lặng), Silence, m. Mặc thị, Révélation, f. Mặcchiếu, id. Mặc tưởng, Méditer, a. n. Réfléchir, n.”

( Nguồn : J.F.M. Genibrel, Dictionnaire Annamite Français, 1898, tr. 442 )Nếu mạc lấy chữ mạc bộ thuỷ ( 漠 ) hay là chữ mặc ( 默 ) và lấy nghĩa yên lặng, thì rõ ràng mạc và mặc đồng nghĩa tương quan : mạc khải = mặc khải, tất cả chúng ta sẽ không có gì để tranh cãi. Có điều là chỉ có mặc 墨 ( chữ hắc 黑 thêm chữ thổ 土, nghĩa chính là mực, sắc đen ) mới đọc trại là “ mạc ” ; còn nói như Génibrel thì rất nhiều lạ, chúng tôi chưa thấy tài liệu nào nói như vậy, phải chăng chỉ chính là cách phát âm riêng của một địa phương nào đó ở Nước Ta hay là chỉ chính là một trong những sai sót của cuốn tự điển này ? [ 19 ]Còn phiên thiết theo ( 1 ) Thuyết Văn Giải Tự說文解字là : 莫 ( mạc ) + 北 ( bắc ), 切 ( thiết ) → mặc. ( 2 ) Khang Hi tự điển 康熙字典là : 密 ( mật ) + 北 ( bắc ), 切 ( thiết ) → mặc. ( 3 ) Từ Hải 辭海 và Từ Nguyên 辭源là : 暮 ( mật ) + 劾 ( hặc ), 切 ( thiết ) → mặc. Như vậy默chỉ có duy nhất một âm là mặc .Như phần đông, chúng tôi cho rằng trong thuật đến từ mạc khải, mạc lấy nghĩa là màn , và viết là幕 ( mạc phần dưới có chữ cân ) .

6. Nghĩa chữ mạc , mạc khải

6.1. Mạc có các chữ Hán: 莫, 幕 (幙), 摸, 漠, 獏, 瘼, 瞙, 羃,膜, 貘, 邈, 鏌 (镆), 鄚, 摹 (cũng đọc chính là mô), 模 (橅, 糢) (cũng đọc là mô), 寞 (冪, 羃, 幎, 幂) (cũng đọc là mịch), 墨 (còn đọc trại là mặc); , các chữ Nôm: 莫, 漠, 瘼, 訡, 邈. Trong thuật đến từ mạc khải, mạc chính là chữ幕, nghĩa là: (dt.) (1) Tấm màn. (2) Trướng (lều bạt): Doanh trại của tướng lãnh (Cái màn che ở trên gọi chính là mạc. Trong quân phải giương màn lên để ở, nên, chỗ quan tướng ở gọi chính là mạc phủ – bộ tư lệnh quân đội. Người tham mưu bí thư ở trong quân gọi chính là mạc hữu; những người thư ký coi việc văn thư gọi là mạc liêu.). (3) Màn (sân khấu): Việc bắt đầu hay là kết thúc (Đóng tuồng trước phải căng màn, đến lúc diễn trò mới mở, vì thế sự gì mới bắt đầu thực hiện đều gọi là khai mạc (mở màn, dẫn đầu); khi hết tuồng thì kéo màn đóng lại, vì thế sự gì kết thúc cũng gọi là bế mạc (đóng màn, chấm dứt). (4) Màn (kịch): Hồi ở bản kịch: Đệ nhất mạc (Màn một). (5) (còn đọc là mạn hay mán): Mặt trái hay là mặt sau của đồng tiền (Đồng tiền thời xưa, mặt phải hay là mặt trước có chữ, mặt trái hay mặt sau thì trơn). (6) Có khi dùng như chữ mạc 漠, nghĩa là: Bể cát : sa mạc; yên lặng: đạm mạc (hờ hững, chưa thể lấy danh lợi làm động lòng được). (đt.) (7) Bao phủ, che trùm: “Giải triều phục nhi mạc chi: cởi áo triều phục mà che lại” (Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ Điển) (8) (dùng kết hợp) nội mạc (chuyện thật bên trong), mạc yến (én thực hiện tổ ở trên màn: tình cảnh nguy ngập, ‘trứng treo đầu gậy’).

6.2. Mạc khải (révélation): Tác động của Thiên Chúa bộc lộ những điều vượt tầm hiểu biết của con người. Ví dụ: Sự hiện hữu của Thiên Chúa vừa do lý trí khám phá vừa đã được chính Ngài mạc khải[20].

6.3. Mạc khải có sai ngữ pháp?

Mạc khải (幕啟) chính là từ ghép chưa có trong tiếng Hoa, chỉ mới có trong tiếng Việt gần 50 năm nay[21].

Trong tiếng Hoa có những từ ghép như : thùy mạc ( 垂幕, dt. : thả màn, drop curtain ), yết mạc ( 揭幕, đt. : vén màn, to unveil, ) … Nhưng những cụm từ như : mạc khải ( 幕啟 kéo màn, the curtain rises ), mạc lạc ( 幕落hạ màn, curtainfall ), mạc thùy ( 幕垂 thả màn, the curtain dropped ) chính là những cụm đến từ tự do. Trong tiếng Việt, dù những thành tố đều có gốc Hán, nhưng nếu xét theo quan hệ cú pháp tiếng Hán, ta có những từ ghép như : khai mạc, bế mạc … ( thành tố chính sau – thành tố phụ trước ), còn xét theo quan hệ cú pháp tiếng Việt, ta cũng có những từ ghép như : trưởng phi hành đoàn, viện hàn lâm … ( thành tố chính trước – thành tố phụ sau ). Đặc điểm này có người gọi chính là “ văn phạm kép ” của tiếng Việt .Theo Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thiện Giáp [ 22 ], đến từ ghép có hai đặc thù là : ( 1 ) Hoàn chỉnh về nghĩa , ( 2 ) Tính phi cú pháp trong quan hệ của những thành tố cấu trúc 🙁 1 ) Một đơn vị chức năng đã được coi là có tính hoàn hảo về nghĩa khi nó có năng lực bộc lộ một khái niệm về đối tượng người dùng sống sót bên ngoài chuỗi lời nói. Từ ghép có tính hoàn hảo về nghĩa, còn cụm đến từ tự do không có đặc thù này. Mạc khải được coi chính là từ ghép có tính hoàn hảo về nghĩa vì trong bất kể trường hợp nào nó cũng đã được dùng như một thuật từ chuyên biệt ( để chỉ tác động tác động của Thiên Chúa thể hiện những điều vượt tầm hiểu biết của con người ) chứ không phải là cụm từ tự do .( 2 ) “ Về mặt lịch sử dân tộc, chính cú pháp là địa hạt đã diễn ra sự cấu trúc của từ ghép, tức chính là những từ ghép được cấu trúc theo quy mô của cụm đến từ ( mặc dầu hoàn toàn có thể có ngoại lệ ) nhưng do tính hoàn hảo về nghĩa, do đã được dùng như những từ, do đó quan hệ giữa những thành tố trong những từ ghép trở nên có tính phi cú pháp ”. Mạc khải là từ ghép phụ nghĩa, gồm hai thành tố cùng loại ( cùng gốc chữ Hán ), có quan hệ cú pháp tiếng Hán ( thành tố chính đứng sau – thành tố phụ đứng trước ) .Theo Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn [ 23 ], về nguyên tắc, từ ghép phụ nghĩa chưa hề có hiện tượng kỳ lạ tự do về mặt trật tự ; yếu tố nào phải đứng trước, yếu tố nào phải đứng sau, là một yếu tố do thói quen thường thì ( ngữ ngôn ) chứ chưa phải do chuẩn mực chi phối ( ngữ pháp ) .Chính yếu tố ngữ ngôn này đã góp thêm phần tạo nên truyền thống văn hoá những dân tộc bản địa. Chẳng hạn nếu nói khải mạc chính là mở màn, thì rất nhiều đúng ngữ pháp Hán Việt và tiếng Hoa, nhưng tất cả mọi người lại chưa có “ khải mạc ” và lại có thuật đến từ mạc khải – từ mà Trung Quốc chưa có ! Có thể nêu ra ở đây một vài ví dụ để thấy rằng vị trí đến từ Hán Việt trong những đến từ ghép tiếng Việt nhiều lúc ngược với tiếng Hoa :Tiếng Việt Tiếng Hoabản sao 抄 本 sao bảnđầu đạn 弹 頭 đạn đầuhồn Việt 越 魂 Việt hồntương quan 關 連 quan liênsắc phục 服 色 phục sắcsố mệnh 命數 mệnh sốtịch thu 回收 hồi thubộ ngoại giao 外交部 ngoại giao bộquan hệ xã hội 社會關係 xã hội quan hệkhoa học tự nhiên 自然科学 tự nhiên khoa họcCó những trường hợp tiếng Việt có hai cách nói, trong đó có cách nói giống tiếng Hoa :Tiếng Việt = Tiếng Hoa Tiếng Việt( văn phạm Hán ) ( văn phạm Việt )( danh từ chính sau ) ( danh đến từ chính trước )

– trưởng đoàn – đoàn trưởng

– ngoại giao đoàn – đoàn ngoại giao( danh đến từ chung sau ) ( danh từ chung trước )– hàn lâm viện – viện hàn lâm– ngôn đến từ viện – viện ngôn từSau đây, chúng tôi thử liệt kê 1 số ít đến từ ghép theo văn phạm tiếng Hán và tiếng Việt, với những thành tố chính chỉ sự vật ( danh từ ) phối hợp với thành tố phụ chỉ hành vi ( động từ ) , và trường hợp ngược lại ( thành tố chính chỉ hành vi ( động đến từ ) – thành tố phụ chỉ sự vật ( danh đến từ ) ) :Văn phạm tiếng Hán( phụ trước – chính sau )Văn phạm tiếng Việt( chính trước – phụ sau )Danh từ – Động từĐộng đến từ – Danh từDanh từ – Động từĐộng đến từ – Danh từgiáo thuyếtlinh ứngngôi hiệpnhật tụngsứ ngôn [ 24 ]thần hứng

mạc khải

thần khảithiên khảithiên phúthiên bẩmbản saoquốc phòngpháo kíchhỗ trợ vốnbế mạcái quốccách mạngkhai mạckhai quốckhai tâmmục vụtác vụphụng vụngôn sứvệ binhtàu baythợ cạothầy giáolưới vétsứ ngônhọc tròtập sựđốc binhtri huyệnvâng lờiCác nhà ngôn ngữ học Nước Ta đã có khá nhiều tài liệu nghiên cứu , và điều tra, điều tra , và phân tích và xếp loại về yếu tố từ ghép nghĩa. Việc phân các loại địa thế căn cứ vào mặt đến từ loại, thí dụ phân loại thành kiểu cấu trúc danh + danh, kiểu cấu trúc động + động, kiểu cấu trúc danh + động vv … cũng là một hướng điều tra , và nghiên cứu còn đang bỏ ngõ. Như vậy, chúng tôi không thấy đủ cơ sở để Tóm lại thuật đến từ mạc khải với cấu trúc danh + động chính là “ sai ngữ pháp Hán Việt ” .

7. Nhận xét

7.1.Mặc khài chính là đến từ ngữ chung trong văn hoá Trung Quốc và Việt Nam được các thế hệ tiền bối dùng như một thuật ngữ trong thần học. Nếu mặc khải theo nghĩa hẹp chính là “sự tỏ bày điều kín ẩn trong âm thầm”, thì từ này có thể dùng để hiểu chữ revelation cũng như inspiration. Công Giáo Trung Quốc đã từng hiểu như vậy, có lẽ vì thế mà ngày nay Giáo Hội Trung Quốc đã thay thế từ mặc khải chỉ bằng hai thuật từ khác, đó là khải thị (cho revelation) , và mặc cảm (cho inspiration).

Tại Nước Ta, ngay từ những thập niên đầu thế kỷ XX, Giáo Hội Nước Ta đã có dùng thuật từ mặc khải [ 25 ] .

7.2.Mạc khải chính là thuật từ của riêng , mới có sau này trong thần học Công Giáo Việt Nam. Ban biên tập cuốn Từ Điển Đức Tin Kitô Giáo chắc phải có nguyên nhân gì đó khi xếp mục từ Révélation, rélvélé vào ngay bên dưới mục đến từ Voile (Khăn che, màn che)? – Có lẽ các tác giả muốn trước khi tìm hiểu Révélation, người ta cần đọc trước mục từ Voile: “tấm vải dùng để che giấu một cái gì… Màn đền thờ… Lý do tồn tại của các bức màn này chính là cái gì là thánh , thần linh đều phải chưa thấy được, chưa bị dơ nhớp bởi những cái nhìn của loài người… Khi Đức Kitô sinh thì, thì MÀN bị xé rách trọn vẹn, biểu tượng sự chấm dứt Giao Ước cũ…” [26] để có thể hiểu hơn về khái niệm Révélation trong Kitôgiáo? Kitô hữu Việt Nam khi dùng đến từ mạc khải có thể sẽ liên tưởng đến BỨC MÀN đó vậy.

8. Mặc hay là mạc?

Năm 1994, trong bản dịch Tân Ước của Nhóm Những Giờ Kinh Phụng Vụ (Nhóm CGKPV) xuất bản, nơi chú thích b) của Sách Khải Huyền, đoạn 1, câu 1 có ghi: “Do từ Hy Lạp apocalypsis, dùng đến từ mặc thay cho mạc. Nếu dùng mạc phải đổi lại chính là khải mạc mới đúng ngữ pháp Hán-Việt.”

Sau đó, Sr. E. Nguyễn Thị Sang ( thuộc Nhóm CGKPV ) có bài đăng nói rõ hơn về nguyên do Nhóm chưa dùng thuật đến từ mạc khải. Thời gian gần đây đã có nhiều bài đăng hoặc bênh hoặc bác việc dùng thuật đến từ này [ 27 ]. Lý do quan trọng, nếu chưa nói đã được là duy số 1 mà chúng tôi thấy qua những bài chủ trương chưa dùng thuật đến từ mạc khải là : Mạc khải chính là thuật đến từ Hán Việt có cấu trúc danh từ bổ túc + động đến từ ngược thứ tự thông thường của những thuật từ Hán Việt là động từ + danh đến từ bổ túc. Ví dụ : khai mạc, bế mạc … Không ai nói mạc khai, mạc bế, vậy cũng không nên dùng kiểu nói mạc khải. Nếu dùng mạc phải đổi lại là khải mạc mới đúng ngữ pháp Hán Việt .

Kết luận.

Trong quá trình tiến độ trưởng thành, Giáo Hội Nước Ta suôn sẻ đã sớm có được nhiều vị tiên phong tài ba , nhiệt tâm thiết kế xây dựng một mạng lưới hệ thống thuật ngữ triết học , thần học bằng chữ Quốc ngữ. Trước chính là những cha Vũ Kim Điền ( thường đã được gọi là Điền Rôma ), Trần Văn Hiến Minh, Bửu Dưỡng, Đỗ Minh Hồng ( Papineau ), Đỗ Minh Vọng ( Cras ) … tiếp đến những cha Cao Văn Luận, Nguyễn Văn Lập … Phần đông am hiểu chữ Hán, tốt nghiệp ĐH ở ngoại bang , và có đủ trình độ để giảng dạy triết học , thần học. Những ngài đã góp sức sức lực lao động sản xuất đến từ mới hoặc kiến thiết xây dựng định nghĩa riêng cho hơn 5.000 mục đến từ trong lãnh vực triết học và thần học Kitô giáo để kịp thời Giao hàng việc làm giảng dạy, đào tạo , giảng dạy và loan báo Phúc m .Bốn cuốn : DANH TỪ THẦN HỌC VÀ TRIẾT HỌC ( 1952 ), DANH TỪ TRIẾT HỌC ( 1959 ), TỪ ĐIỂN LA-VIỆT-PHÁP ( 1960 ), TỪ ĐIỂN VÀ DANH TỪ TRIẾT HỌC ( 1966 ) đã chính là những tài liệu giáo khoa cơ bản cho hàng vạn học viên, sinh viên ban triết những trường trung học, ĐH , và những chủng sinh trãi bao thế hệ. Đó cũng chính là di sản văn hoá quý báu so với Giáo Hội Nước Ta .Phần lớn trong số 5.000 mục đến từ đó vẫn còn đã được tiếp đón thoáng rộng trong khi 1 số ít đã bị quên lãng. Chắc chắn cũng có một số ít thuật từ cần phải xem lại , và sửa chữa thay thế cho thích hợp hơn. Công việc đó cũng cần có sự góp phần quan điểm kiến thiết xây dựng của mọi người thiện chí, đồng thời cần phải dựa ở trên những học lý, học thuật tráng lệ. Tránh thái độ phê phán, kích bác chỉ dựa trên cảm tính hay là sở trường thích nghi riêng. Trường hợp hai thuật đến từ mặc khải , mạc khải cũng vậy .

Nhứ thế, ta có thế kết luận rằng, nếu muốn thuật từ được phổ thông thì dùng mặc khải, còn nếu muốn gây nên thuật từ đặc ngữ cho Giáo Hội tại Việt Nam thì có thể dùng mạc khải, nhưng cần giải thích rõ ý nghĩa của chữ mạc , và có tính thuyết phục.

Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ* bài đăng phản ánh quan điểm , và văn phong riêng của tác giả Stêphanô Huỳnh Trụ, linh mục quản xứ Phanxicô Xaviê, TGP TP HCM , là một fan hâm mộ của dongten.net. bài đăng do tác giả gửi trực tiếp cho tiếp thị quảng cáo Dòng Tên Nước Ta . [1]Bản dịch Tân Ước của Nhóm Những Giờ Kinh Phụng Vụ (Nhóm CGKPV) xuất bản năm 1994, nơi chú thích b) của Sách Khải Huyền, đoạn 1, câu 2. [2] www.etymonline.com. [3] http://dictionary.reference.com/browse/revelation. [4] Tựa đề sách này là: “Cathechismvs Pro Iis, Qui Volunt Suscipere Baptismvm, In Octo Dies Diuisus – Phép Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muấn Chịu Phép Rứa Tọi, Ma Ƀěào Đạo Thánh Đức Chúa Blời (Phép Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muốn Chịu Phép Rửa Tội, Mà Vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời) – Ope Sacrae Congregationis De Propaganda Fide In Lucem Editus – Ab Alexandro De Rhodes è Societate Iesv, Ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico”, Roma, 1651. [5] Tựa đề sách này chính là : “Dictionarivm Annamiticvm, Lvsitanvm, Et Latinvm, Ope Sacrae Congregationis De Propaganda Fide In Lvcem Editvm – Ab Alexandro De Rhodes E Societate Iesv, Eivsdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico”, Roma, 1651. [6]Đào Duy Anh, HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN, in lần thứ ba, NXB. Trường Thi, Sài Gòn, 1957, tr. 360: “Khải mông (啓蒙) là mở mang cái tối tăm, cái ngu tối. Nghĩa bóng: Dạy học trò từ lúc bắt đầu còn ngu dốt”. Chữ này, nghĩa rất nhiều nghiêm nghị, đã được các giáo sĩ dùng trong bối cảnh truyền bá Đạo Kitô thời bấy giờ, “đem Đạo đến để mở mang tâm trí những kẻ còn ngu dốt tối tăm”. Vì vậy đến từ này về sau chưa còn dùng nữa. Thuật từ này bên Trung Quốc ngày nay vẫn dùng với nghĩa chính là học đến từ đầu, (môn học) nhập môn. [7] Tựa sách đầy đủ là: “Disputationes De Controversiis Christianae Fidei Adversus Hujus Temporis Haereticos” thường đã được gọi tắt chính là “De Controversiis” hay “Controverses”. [8] Julien Thiriet, Dictionarium Latino-Annamiticum, 1868, tr. 219: Revelatio, onis, f. Sự tỏ ra. Revelo, as, avi, atum, are, a. Bày tỏ ra. [9] P.G. Vallot, Dictionnaire Franco-Tonkinois Illustre, 1898, tr. 323: Révélation: Sự tỏ điều kín, điều kín đã tỏ. Révéler: Tỏ sự kín, cho biết, tố cáo, tố giác. [10] J.F.M. Genibrel, Dictionnaire Annamite-Français (Đại Việt Quốc m Hán Tự Pháp Thích Tập Thành), 1898, tr. 442 : 默 Mặc. (Lặng), Im lặng, m. Mặc thị, Révélation, f. Mặc chiếu, id. Mặc tưởng, ngẫm nghĩ, a. n. Hồi tưởng. [11] Th.s. Nguyễn Mạnh Linh, Từ Điển Từ Nguyên Tiến Trung, Hồng Đức, Hà Nội, 2008, tr.389. [12] Lý Lạc Nghị, Tìm VềCộinguồnChữ Hán, nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1997, tr. 389. [13] Th.s. Nguyễn Mạnh Linh, Từ Điển Từ Nguyên Tiếng Trung, Hồng Đức, Hà Nội, 2008, tr.389. [14] Trần Văn Hiến Minh, Kytô Học, Ra Khơi xb, Sài Gòn, 1957, tr. 386. [15] Trần Văn Hiến Minh, Từ Điển Và Danh Từ Triết Học, Ra Khơi, Sài Gòn, 1966, tr. 148. [16] Ví dụ xem: Trần Văn Hiến Minh, Kytô Học, Ra khơi, Sài Gòn, 1957, hayThượng Đế Học, Ra khơi, Sài Gòn, 1958. [17] Ví dụ xem: Trần Văn Hiến Minh, Mari Học, Ronéo, TP. HCM, 1986. [18] Trần Văn Chánh, HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN , Thiều Chửu, Hán Việt Tự Điển, Đuốc Tuệ, Hà Nội, 1942, cho rằng: “Mạc 幕có khi cũng dùng như chữ mạc 漠” và trang http://vi.wikipedia.org. dùng chữ mạc 漠. [19] Xem thêm bài của Nguyễn Quảng Tuân: “Những sai lầm trong quyển Tự Điển Génibrel” trong Tập Chí Hán Nôm, Số 2(3), năm 1987. [20] Trần Văn Hiến Minh, Từ Điển Và Danh Từ Triết Học, Ra khơi, Sài Gòn, 1966, tr. 148. [21] Cấu trúc thuật đến từ mạc khải cũng tương tự như thuật đến từ sứ ngôn mà chúng tôi đã có dịp tìm hiểu trong bài “Tiên tri – Ngôn sứ – Sứ ngôn” đã đăng trong Bài Giảng Chúa Nhật, số 11, năm 2006, trang 93. [22] Nguyễn Thiện Giáp, Từ Vựng Học Tiếng Việt, NXB. ĐH&THCN, Hà Nội, 1985, tr.77-78. [23] Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ Pháp Tiếng Việt, NXB. ĐH & THCN, Hà Nội, 1981, tr.91. [24] Xin xem bài “Tiên tri – Ngôn sứ – Sứ ngôn” đăng trong Bài Giảng Chúa Nhật, Số tháng 8 năm 2006, tr. 93. [25] Chúng tôi không có cuốn Từ Điển Pháp Việt (dictionnaire franẵais-vietnamien) của Lê Công Đắc xuất bản lần I năm 1939, nhưng có quyển xuất bản lần III của NXB. Nam Sơn, Hà Nội, 1954. Trong đó ghi: Révélation: n.f. Sự lộ ra, sự thóc mách, sự thú giác. Đạo trời lộ ra, đạo thiên khải, đạo mặc khải; Révélé, e.a. Được trời soi sáng, thiên khải, mặc khải; Révéler, v.t. Tỏ cho biết, tiết lộ, lộ. soi sáng, mặc chiếu. Se-révéler [à] v.p. Tỏ mình ra, lộ ra (cho), vở lở. Trong cuốn Danh Từ Thần Học , Triết Học của Ban giáo sư trường Thần Học Bùi Chu biên soạn,Tủ sách Liên Chủng Viện, Bùi Chu, 1952, có ghi: Révélation: Mặc khải. [26] Olivier de La Brosse & Ntg, Dictionnaire De La Foi Chrétienne, Cerf, Paris, 1968. [27] Những bài chủ trương dùng đến từ Mặc khải: Khuyết danh: Góp ý về từ ngữ “mặc” trong “mặc khải” hay “mạc” trong “mạc khải” – Thiên Chúa “mặc khải” hay là chỉ “mạc khải” (mặc hay là mạc)? ([ 1 ] Bản dịch Tân Ước của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ ( Nhóm CGKPV ) xuất bản năm 1994, nơi chú thích b ) của Sách Khải Huyền, đoạn 1, câu 2. [ 2 ] Tham khảo : www.etymonline.com. [ 3 ] http://dictionary.reference.com/browse/revelation. [ 4 ] Tựa đề sách này là : “ Cathechismvs Pro Iis, Qui Volunt Suscipere Baptismvm, In Octo Dies Diuisus – Phép Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muấn Chịu Phép Rứa Tọi, Ma Ƀěào Đạo Thánh Đức Chúa Blời ( Phép Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muốn Chịu Phép Rửa Tội, Mà Vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời ) – Ope Sacrae Congregationis De Propaganda Fide In Lucem Editus – Ab Alexandro De Rhodes è Societate Iesv, Ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico ”, Roma, 1651. [ 5 ] Tựa đề sách này chính là : “ Dictionarivm Annamiticvm, Lvsitanvm, Et Latinvm, Ope Sacrae Congregationis De Propaganda Fide In Lvcem Editvm – Ab Alexandro De Rhodes E Societate Iesv, Eivsdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico ”, Roma, 1651. [ 6 ] Đào Duy Anh, HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN, in lần thứ ba, NXB. Trường Thi, Hồ Chí Minh, 1957, tr. 360 : “ Khải mông ( 啓蒙 ) là mở mang cái tối tăm, cái ngu tối. Nghĩa bóng : Dạy học trò từ lúc khởi đầu còn ngu dốt ”. Chữ này, nghĩa rất nhiều nghiêm nghị, đã được những giáo sĩ dùng trong toàn cảnh truyền bá Đạo Kitô thời bấy giờ, “ đem Đạo đến để mở mang tâm lý những kẻ còn ngu dốt tối tăm ”. Vì vậy từ này về sau không còn dùng nữa. Thuật từ này bên Trung Quốc ngày này vẫn dùng với nghĩa là học đến từ đầu, ( môn học ) nhập môn. [ 7 ] Tựa sách không thiếu là : “ Disputationes De Controversiis Christianae Fidei Adversus Hujus Temporis Haereticos ” thường được gọi tắt chính là “ De Controversiis ” hay là “ Controverses ”. [ 8 ] Julien Thiriet, Dictionarium Latino-Annamiticum, 1868, tr. 219 : Revelatio, onis, f. Sự tỏ ra. Revelo, as, avi, atum, are, a. Bày tỏ ra. [ 9 ] P.G. Vallot, Dictionnaire Franco-Tonkinois Illustre, 1898, tr. 323 : Révélation : Sự tỏ điều kín, điều kín đã tỏ. Révéler : Tỏ sự kín, cho biết, tố cáo, tố giác. [ 10 ] J.F.M. Genibrel, Dictionnaire Annamite-Français ( Đại Việt Quốc m Hán Tự Pháp Thích Tập Thành ), 1898, tr. 442 : 默 Mặc. ( Lặng ), Im lặng, m. Mặc thị, Révélation, f. Mặc chiếu, id. Mặc tưởng, ngẫm nghĩ, a. n. Hồi tưởng. [ 11 ] Th.s. Nguyễn Mạnh Linh, Từ Điển Từ Nguyên Tiến Trung, Hồng Đức, TP.HN, 2008, tr. 389. [ 12 ] Lý Lạc Nghị, Tìm VềCộinguồnChữ Hán, nxb. Thế Giới, TP.HN, 1997, tr. 389. [ 13 ] Th.s. Nguyễn Mạnh Linh, Từ Điển Từ Nguyên Tiếng Trung, Hồng Đức, TP. Hà Nội, 2008, tr. 389. [ 14 ] Trần Văn Hiến Minh, Kytô Học, Ra Khơi xb, TP HCM, 1957, tr. 386. [ 15 ] Trần Văn Hiến Minh, Từ Điển Và Danh Từ Triết Học, Ra Khơi, Hồ Chí Minh, 1966, tr. 148. [ 16 ] Ví dụ xem : Trần Văn Hiến Minh, Kytô Học, Ra khơi, TP HCM, 1957, hayThượng Đế Học, Ra khơi, TP HCM, 1958. [ 17 ] Ví dụ xem : Trần Văn Hiến Minh, Mari Học, Ronéo, TP.Hồ Chí Minh, 1986. [ 18 ] Trần Văn Chánh, HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN và Thiều Chửu, Hán Việt Tự Điển, Đuốc Tuệ, TP. Hà Nội, 1942, cho rằng : “ Mạc 幕có khi cũng dùng như chữ mạc 漠 ” và trang http://vi.wikipedia.org. dùng chữ mạc 漠. [ 19 ] Xem thêm bài của Nguyễn Quảng Tuân : “ Các sai lầm đáng tiếc trong quyển Tự Điển Génibrel ” trong Tập Chí Hán Nôm, Số 2 ( 3 ), năm 1987. [ 20 ] Trần Văn Hiến Minh, Từ Điển Và Danh Từ Triết Học, Ra khơi, TP HCM, 1966, tr. 148. [ 21 ] Cấu trúc thuật từ mạc khải cũng tương tự như như thuật đến từ sứ ngôn mà chúng tôi đã có dịp khám phá trong bài “ Tiên tri – Ngôn sứ – Sứ ngôn ” đã đăng trong Bài Giảng Chúa Nhật, số 11, năm 2006, trang 93. [ 22 ] Nguyễn Thiện Giáp, Từ Vựng Học Tiếng Việt, NXB. ĐH&THCN, TP. Hà Nội, 1985, tr. 77-78. [ 23 ] Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ Pháp Tiếng Việt, NXB. ĐH , và THCN, Thành Phố Hà Nội, 1981, tr. 91. [ 24 ] Xin xem bài “ Tiên tri – Ngôn sứ – Sứ ngôn ” đăng trong Bài Giảng Chúa Nhật, Số tháng 8 năm 2006, tr. 93. [ 25 ] Chúng tôi chưa có cuốn Từ Điển Pháp Việt ( dictionnaire franẵais-vietnamien ) của Lê Công Đắc xuất bản lần I năm 1939, nhưng có quyển xuất bản lần III của NXB. Nam Sơn, TP. Hà Nội, 1954. Trong đó ghi : Révélation : n. f. Sự lộ ra, sự thóc mách, sự thú giác. Đạo trời lộ ra, đạo thiên khải, đạo mặc khải ; Révélé, e. a. Được trời soi sáng, thiên khải, mặc khải ; Révéler, v. t. Tỏ cho biết, bật mý, lộ. soi sáng, mặc chiếu. Se-révéler [ à ] v. p. Tỏ mình ra, lộ ra ( cho ), vở lở. Trong cuốn Danh Từ Thần Học và Triết Học của Ban giáo sư trường Thần Học Bùi Chu biên soạn, Tủ sách Liên Chủng Viện, Bùi Chu, 1952, có ghi : Révélation : Mặc khải. [ 26 ] Olivier de La Brosse và Ntg, Dictionnaire De La Foi Chrétienne, Cerf, Paris, 1968. [ 27 ] Các bài chủ trương dùng đến từ Mặc khải : Khuyết danh : Góp ý về đến từ ngữ “ mặc ” trong “ mặc khải ” hay là “ mạc ” trong “ mạc khải ” – Thiên Chúa “ mặc khải ” hay chỉ “ mạc khải ” ( mặc hay là mạc ) ? ( http://tonggiaophanhue.net ) ; Lm. Nguyễn Nhân Tài, SJB. : “ Nên dùng chữ “ mạc khải ” hay “ mặc khải ” ? ( vietcatholic.com ) ; Lm. Nguyễn Hữu Triết : Vấn đề hội nhập văn hoá ; Các bài chủ trương dùng đến từ Mạc khải : Lm. Nguyễn Long Thao : Đặc ngữ Công Giáo Nước Ta : mạc khải hay mặc khải ( www.dunglac.org ) ; Đaminh Phan Văn Phước : Nguyên nghĩa của chữ mạc khải ( http://tonggiaophanhue.net ) ; Lê Anh Dũng : Mặc khải hay mạc khải, thiên khải ? ( www.thienlybuutoa.org ) ; Huỳnh Christian Timothy : Mạc khải sau cuối ( www.thanhkinhthanhoc.net ) ; Các bài chủ trương dùng cả hai từmạc khải và mặc khải : Bất Tiếu Nguyễn Quốc Bảo : Linh thao , mạc ( mặc ) khải ” ( www.chimviet.free.fr ) ; Joseph Phạm Thanh Liêm, S. J. : Mặc khải ( http://pierrequangminh.blogspot.com ) .

Giới thiệu: Quang Sơn

Quang Sơn là giám đốc hocdauthau.com - Kênh thông tin học đấu thầu, kiến thức tổng hợp, công nghệ, đời sống.

0 Shares
Share
Tweet
Pin